HỘI NHẬP QUỐC TẾ VỚI PHỤ NỮ

Font size : A- A A+
 
I.      Khái niệm hội nhập quốc tế

Những năm gần đây, hội nhập quốc tế đã trở thành cụm từ khá quen thuộc ở Việt Nam. Thuật ngữ ”hội nhập kinh tế quốc tế” bắt đầu được sử dụng từ khoảng giữa thập niên 1990 cùng với quá trình Việt Nam gia nhập ASEAN, tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và các thể chế kinh tế quốc tế khác. Những năm gần đây, cụm từ “hội nhập quốc tế” (thậm chí nói ngắn gọn là “hội nhập”) được sử dụng ngày càng phổ biến hơn và với hàm nghĩa rộng hơn hội nhập kinh tế quốc tế.  

 
Tuy nhiên hiện chưa có một định nghĩa chính thức cho “hội nhập quốc tế”. Nhìn chung có hai cách hiểu chính. Thứ nhất, cách hiểu hẹp coi “hội nhập quốc tế” là sự tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu vực. Thứ hai, cách hiểu rộng, coi “hội nhập quốc tế” là sự mở cửa và tham gia vào mọi mặt của đời sống quốc tế, đối lập với tình trạng đóng cửa, cô lập hoặc ít giao lưu quốc tế. Với tư duy theo cách này, không ít người thậm chí đã đánh đồng hội nhập với hợp tác quốc tế. Cả hai cách hiểu trên về khái niệm “hội nhập quốc tế” đều chưa đầy đủ.
 
Hội nhập quốc tế cần được hiểu như là quá trình các nước tiến hành các hoạt động tăng cường gắn kết với nhau dựa trên chia sẻ về lợi ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền lực (thẩm quyền định đoạt chính sách) và tuân thủ các luật chơi chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế. Như vậy, khác với hợp tác quốc tế (hành vi các chủ thể quốc tế đáp ứng lợi ích hay nguyện vọng của nhau, không chống đối nhau), hội nhập quốc tế vượt lên trên sự hợp tác quốc tế thông thường: nó đòi hỏi sự chia sẻ và tính kỷ luật cao của các chủ thể tham gia. 
 
Hội nhập quốc tế có thể diễn ra trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, an ninh-quốc phòng, văn hóa, giáo dục, xã hội, v.v.), nhưng cũng có thể đồng thời diễn ra trên nhiều lĩnh vực với tính chất (tức là mức độ gắn kết), phạm vi (gồm địa lý, lĩnh vực/ngành) và hình thức (song phương, đa phương, khu vực, liên khu vực, toàn cầu) rất khác nhau.
 
Lợi và bất lợi của hội nhập quốc tế
 
Hội nhập quốc tếcó những lợi ích chính như sau:
 
-         Giúp mở rộng thị trường, thúc đẩy thương mại và các quan hệ kinh tế quốc tế khác, từ đó thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế-xã hội; tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, từ đó nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của các sản phẩm và doanh nghiệp, đồng thời, làm tăng khả năng thu hút đầu tư vào nền kinh tế các doanh nghiệp trong nước có thêm cơ hội tiếp cận thị trường quốc tế, nguồn tín dụng và các đối tác quốc tế.
 
-         Giúp nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và nền khoa học công nghệ quốc gia (nhờ hợp tác giáo dục-đào tạo và nghiên cứu khoa học với các nước và tiếp thu công nghệ mới thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài và chuyển giao công nghệ từ các nước tiên tiến).
 
-         Tạo cơ hội để người dân được thụ hưởng các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đa dạng về chủng loại, mẫu mã và chất lượng với giá cạnh tranh; được tiếp cận và giao lưu nhiều hơn với thế giới bên ngoài, từ đó có cơ hội phát triển và tìm kiếm việc làm cả ở trong lẫn ngoài nước.
 
-         Tạo điều kiện để các nhà hoạch định chính sách nắm bắt tốt hơn tình hình và xu thế phát triển của thế giới, từ đó có thể đề ra chính sách phát triển phù hợp cho đất nước.
 
-         Giúp bổ sung những giá trị và tiến bộ của văn hóa, văn minh của thế giới, làm giàu văn hóa dân tộc và thúc đẩy tiến bộ xã hội; tạo động lực và điều kiện để cải cách toàn diện hướng tới xây dựng một xã hội mở, dân chủ hơn, và một nhà nước pháp quyền
 
-         Tạo điều kiện để mỗi nước tìm cho mình một vị trí thích hợp trong trật tự quốc tế, giúp tăng cường uy tín và vị thế quốc tế, cũng như khả năng duy trì an ninh, hòa bình và ổn định để phát triển; giúp duy trì hòa bình và ổn định khu vực và quốc tế để các nước tập trung cho phát triển; đồng thời mở ra khả năng phối hợp các nỗ lực và nguồn lực của các nước để giải quyết những vấn đề quan tâm chung của khu vực và thế giới;
 
Tuy nhiên, hội nhập cũng đặt các nước trước nhiều bất lợi và thách thức:
 
-         Làm gia tăng cạnh tranh gay gắt khiến nhiều doanh nghiệp và ngành kinh tế gặp khó khăn, thậm chí là phá sản, từ đó gây nhiều hậu quả về mặt kinh tế-xã hội; làm tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc gia vào thị trường bên ngoài và, do vậy, khiến nền kinh tế dễ bị tổn thương trước những biến động của thị trường quốc tế.
 
-         Không phân phối công bằng lợi ích và rủi ro cho các nước và các nhóm khác nhau trong xã hội, do vậy có nguy cơ làm tăng khoảng cách giàu-nghèo; trong quá trình hội nhập, các nước đang phát triển phải đối mặt với nguy cơ chuyển dịch cơ cấu kinh tế tự nhiên bất lợi, do thiên hướng tập trung vào các ngành sử dụng nhiều tài nguyên, nhiều sức lao động, nhưng có giá trị gia tăng thấp, từ đó, dễ có thể trở thành bãi rác thải công nghiệp và công nghệ thấp, bị cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên và hủy hoại môi trường.
 
-         Có thể tạo ra một số thách thức đối với quyền lực Nhà nước (theo quan niện truyền thống về độc lập, chủ quyền) và phức tạp đối với việc duy trì an ninh và ổn định ở các nước đang phát triển.
 
-         Có thể làm gia tăng nguy cơ bản sắc dân tộc và văn hóa truyền thống bị xói mòn trước sự “xâm lăng” của văn hóa nước ngoài.
 
-         Có thể đặt các nước trước nguy cơ gia tăng của tình trạng khủng bố quốc tế, buôn lậu, tội phạm xuyên quốc gia, dịch bệnh, nhập cư bất hợp pháp…
 
Như vậy, hội nhập đồng thời đưa lại cả lợi ích lẫn bất lợi đối với các nước. Tuy nhiên, không phải cứ hội nhập là đương nhiên hưởng đầy đủ tất cả các lợi ích và gánh mọi bất lợi như đã nêu trên. Các lợi ích và bất lợi nhìn chung ở dạng tiềm năng và đối với mỗi nước một khác, do các nước không giống nhau về điều kiện, hoàn cảnh, trình độ phát triển… Việc khai thác được lợi ích đến đâu và hạn chế các bất lợi, thách thức thế nào phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhất là năng lực của mỗi nước, trước hết là chiến lược, biện pháp hội nhập và việc tổ chức thực hiện.
 
I.      Tình hình hội nhập quốc tế của Việt Nam
 
Ngay sau Cách mạng tháng Tám thành công, xuất phát từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, công nghệ, kỹ thuật kém phát triển, bị kiệt quệ vì bóc lột của chủ nghĩa đế quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương Việt Nam mở rộng quan hệ với các nước để học tập, tiếp thu kinh nghiệm phát triển mọi mặt. Quan điểm nổi bật trong hội nhập và hợp tác quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh là “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”, thể hiện tư tưởng hòa bình, hữu nghị, cùng có lợi. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức rõ rằng, mọi thành tựu của khoa học kỹ thuật, mọi nguồn lực kinh tế, văn hóa đã được tạo ra đều là tài sản chung của văn minh nhân loại. Do đó, nước ta phải hội nhập thông qua các hình thức hợp tác quốc tế để khai thác tốt nhất mọi giá trị nguồn lực của nhân loại nhằm làm giàu và tăng cường sức mạnh cho dân tộc, giữ vững quyền độc lập tự do, mưu cầu hạnh phúc cho đồng bào.
 
Kế thừa và phát huy tư tưởng của Hồ Chí Minh về hội nhập và hợp tác quốc tế, hội nhập kinh tế quốc tế, sau là hội nhập quốc tế, đã trở thành chủ trương của Đảng ta qua nhiều kỳ Đại hội và đã đạt được những kết quả vững chắc. Đại hội lần thứ IX của Đảng đã đề ra chủ trương “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”. Ngày 27-11-2001, Bộ Chính trị khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW “Về hội nhập kinh tế quốc tế”. Đại hội lần thứ X của Đảng khẳng định chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực khác”. Ngày 05-02-2007, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW “Về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới”. Trong bối cảnh Việt Nam chuẩn bị hội nhập sâu rộng, đường lối đối ngoại của Đại hội XI năm 2011 đã có một số phát triển mới, hội nhập quốc tế trở thành định hướng đối ngoại lớn, lấy hội nhập kinh tế là trọng tâm và mở rộng sang các lĩnh vực khác: chính trị, quốc phòng, an ninh, văn hóa-xã hội và ở mọi cấp độ song phương, khu vực, đa phương và toàn cầu.
 
Ngày 10/4/2013, Bộ Chính trị khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 22/NQ-TW về hội nhập quốc tế, trong đó xác định mục tiêu: “Hội nhập quốc tế phải nhằm củng cố môi trường hòa bình, tranh thủ tối đa các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; quảng bá hình ảnh Việt Nam, bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc; tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước; góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.”
 
Đến nay, Việt Nam đã xác lập quan hệ ngoại giao với 180 trong 193 quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc, quan hệ kinh tế thương mại với 230 quốc gia và vùng lãnh thổ. Việt Nam trở thành thành viên tích cực của trên 70 tổ chức khu vực và quốc tế, có 98 cơ quan đại diện trên toàn thế giới.
 
Trong bối cảnh thế giới toàn cầu hóa và sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng, Việt Nam cũng đang triển khai một cách khẩn trương và có hiệu quả chủ trương làm sâu sắc quan hệ với các đối tác quan trọng. Hiện nay, chúng ta đã xác lập quan hệ đối tác chiến lược với 15 nước (Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Tây Ban Nha, Anh, Đức, Hà Lan, Đan Mạch, Italia, Indonesia, Thái Lan, Singapore, Pháp). Việt Nam và Hoa Kỳ đã xác lập quan hệ đối tác toàn diện, tạo nền tảng cho những bước phát triển mới trong quan hệ song phương, đóng góp vào hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở Châu Á - Thái Bình Dương và trên thế giới.
 
Việt Nam đã gia nhập ASEAN vào tháng 7-1995, ký kết Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA) vào năm 2000, gia nhập WTO vào tháng 01-2007 và tham gia 09 Hiệp định Thương mại tự do (FTA) (bao gồm FTA khu vực giữa khối ASEAN với Trung Quốc- 2004, Hàn Quốc -2006, Nhật Bản- 2008, Ôt-xtrây-lia và Niu-Di-lân- 2009, và Ấn Độ-2009; FTA song phương với Nhật Bản-2008 và Chi-lê- 2011 và mới đây là FTA với Liên minh Kinh tế Á-Âu (gồm Nga, Armenia, Belarus, Kazakhstan và Kyrgyzstan -2015 và với Hàn Quốc - 2015).
 
Việt Nam cũng đang tích cực tham gia đàm phán 4 FTA khác, gồm Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), FTA với Liên minh châu Âu (EU), với Khối thương mại tự do châu Âu (EFTA) gồm các nước Thụy Sỹ, Na-uy, Lích-tân-xten và Ai-xơ-len, và FTA giữa khối ASEAN với Hồng Công (Trung Quốc). Ngoài ra, ta cũng tích cực chủ động tham gia sâu vào diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), đã đăng cai năm APEC 2006 và tiến tới sẽ đăng cai APEC năm 2017.
 
Lần thứ hai, Việt Nam đã chính thức ứng cử làm Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc (nhiệm kỳ 2020-2021), đăng cai tổ chức Đại hội đồng Liên minh Nghị viện thế giới IPU lần thứ 132 (năm 2015). Mới đây nước ta đã được bầu vào Hội đồng Thống đốc Tổ chức Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA), Ủy ban Di sản thế giới của UNESCO và lần đầu tiên được bầu vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc (nhiệm kỳ 2014-2016) với số phiếu rất cao, thể hiện uy tín quốc tế của Việt Nam.
 
Hiện nay, chúng ta đang tham gia một cách chủ động, tích cực, có trách nhiệm vào việc xây dựng Cộng đồng ASEAN, cùng các nước thành viên xác định những định hướng lớn cho Hiệp hội giai đoạn sau khi thành lập Cộng đồng vào năm 2015, thúc đẩy hợp tác nội khối, phát huy vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc khu vực đang định hình. Việt Nam cũng đang nỗ lực cùng các nước ASEAN và Trung Quốc hướng tới một Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC) nhằm duy trì hòa bình, ổn định, kiểm soát các tranh chấp, góp phần xây dựng lòng tin và củng cố mối quan hệ đối tác chiến lược ASEAN – Trung Quốc.
 
Nếu việc tham gia Tổ chức thương mại thế giới (WTO) mở đầu sự hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế quốc tế thì với những hoạt động ngoại giao đa phương trên, Việt Nam đã bắt đầu hội nhập đầy đủ vào đời sống chính trị quốc tế.
 
II.   Những tác động của quá trình hội nhập quốc tế đối với phụ nữ Việt Nam
 
Trước hết phải khẳng định rằng, hội nhập quốc tế tạo môi trường hòa bình, ổn định cho mọi người dân Việt Nam, trong đó có phụ nữ; là cơ hội để đưa hình ảnh của phụ nữ Việt Nam tới bạn bè quốc tế; tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè quốc tế vì mục tiêu bình đẳng và phát triển cho phụ nữ Việt Nam; tạo điều kiện để phụ nữ được học tập nâng cao trình độ, mở rộng môi trường hoạt động, mở rộng quan hệ với phụ nữ quốc tế.
 
Tuy nhiên, quá trình hội nhập quốc tế cũng tiềm ẩn nhiều thách thức và tác động tiêu cực đối với phụ nữ Việt Nam:
 
Đối với nhân lực nữ: Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, mặc dù cơ hội việc làm lớn hơn nhưng phần lớn phụ nữ Việt Nam vẫn ít có cơ hội tiếp cận do trình độ, tay nghề, kỹ năng nghề nghiệp, ngoại ngữ, tin học...chưa đáp ứng được tiêu chuẩn quốc tế; hạn chế trong khả năng thích ứng với những thay đổi trong công việc. Mặt khác, sự quan tâm đầu tư của Nhà nước vào các ngành có giá trị gia tăng cao như dịch vụ tài chính, ngân hàng, các ngành công nghệ cao như viễn thông sẽ dẫn đến sự thu hẹp việc làm và giảm thu nhập của lao động nữ vì các lao động nữ hiện nay chủ yếu tập trung ở các ngành công nghiệp nhẹ như sản xuất giày da, may, chế biến nông sản…Việc cắt giảm thuế nhập khẩu và mở cửa ngày càng rộng đối với nông sản nhập khẩu và sản phẩm dệt may nhập khẩu sẽ dẫn đến nguy cơ thu nhập bấp bênh đối với nữ lao động nông nghiệp và may công nghiệp. Hội nhập, đặc biệt là khi hình thành cộng đồng chung ASEAN, sẽ có thêm nhiều việc làm cho lao động Việt Nam, tuy nhiên, hầu hết tập trung trong ngành thương mại, xây dựng và vận tải, những công việc thường tuyển nhiều nam giới hơn.
 
Đối với doanh nghiệp nữ: nhiều doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ tập trung ở khu vực phi chính thức nên ít được tính trong danh sách doanh nhân, ít được tiếp cận nguồn hỗ trợ của chính phủ, chính quyền địa phương và tiếp cận các dịch vụ tài chính. Trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu rộng, các doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp nữ Việt Nam hiểu biết còn hạn chế về vấn đề này, chủ yếu nhìn nhận dưới góc độ cơ hội tiếp cận thị trường mà chưa lường trước được những sức ép và khó khăn đến từ sự cạnh tranh. Phần khác là do phụ nữ phải đối mặt với nhiều rào cản, nhất là vấn đề tập quán, văn hóa... khiến việc tiếp cận các nguồn lực cũng như các cơ hội kinh doanh của phụ nữ bị nhiều hạn chế.
 
Phụ nữ đứng trước nguy cơ lớn hơn của tội phạm mua bán người, mại dâm xuyên quốc gia, lao động di cư trái phép, hôn nhân bất hợp pháp, đặc biệt là phụ nữ ở các vùng giáp biên. Việc mở ra các kênh thông tin các loại, bên cạnh những tác động tích cực, cũng có thể khiến phụ nữ dễ bị ảnh hưởng bởi những thông tin thất thiệt, tiêu cực,; đặc biệt ở những vùng sâu vùng xa, phụ nữ dễ nghe theo luận điệu tuyên truyền của kẻ xấu, di dân tự do, theo đạo trái pháp luật.
 
Giái pháp nhằm giúp phụ nữ thích ứng với quá trình hội nhập
 
Đối với bản thân người phụ nữ
 
Chị em cầnvượt qua định kiến giới, dám nghĩ, dám làm, tin vào quyết tâm và khả năng thành công của mình; chủ động tích cực và quyết tâm nâng cao trình độ, kiến thức, tay nghề, kỹ năng nghề  nghiệp, trình độ ngoại ngữ, tin học để hội nhập tốt. Bên cạnh việc tích luỹ thêm kinh nghiệm trong lĩnh vực của mình, chị em cũng cần biết làm chủ bản thân trước những áp lực và thách thức của cuộc sống, của nền kinh tế thời hội nhập, tranh thủ mọi cơ hội và tạo lập được các mối quan hệ xã hội. Chị em cần cập nhật thông tin, làm giàu thêm kiến thức về văn hoá, kỹ năng sống, kỹ năng giao tiếp, ứng xử theo thông lệ quốc tế. Một điều nữa là chị em cần tham gia tích cực hơn trong các hoạt động chung, quan tâm đến lợi ích cũng như các vấn đề của xã hội và cộng đồng. Và cuối cùng, nhưng cũng rất quan trọng đó là chị em chúng ta cần quan tâm tới bản thân hơn, nâng cao sức khỏe, giữ gìn vẻ đẹp hình thể, tổ chức cuộc sống khoa học để tránh những áp lực, căng thẳng trong công việc, trong gia đình. Những yếu tốđó sẽ tạo nên hình ảnh người phụ nữ Việt Nam năng động, tự tin trong thời kỳ hội nhập, đồng thời vẫn giữ được bản sắc, nét đẹp truyền thống.
 
Để được chia sẻ thông tin, tư vấn và hỗ trợ một số kỹ năng trong hội nhập quốc tế (như tiếp cận nguồn vốn kinh doanh, đào tạo nghề, đi lao động ở nước ngoài, kết hôn có yếu tố nước ngoài, phòng chống buôn bán người, bạo lực trên cơ sở giới,...), chị em phụ nữ có thể liên hệ với Hội Phụ nữ các cấp để đề nghị giúp đỡ.
 
Đối với Hội LHPN Việt Nam
 
Đối với cán bộ, hội viên, phụ nữ:
 
Hội tuyên truyền tới các cấp Hội, hội viên phụ nữ về chủ trương chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, về phong trào phụ nữ quốc tế, các mô hình, kinh nghiệm phù hợp của các nước về phát triển phụ nữ và thúc đẩy bình đẳng giới...Đồng thời, Hội tích cực tuyên truyền về hội nhập quốc tế, trong đó có Cộng đồng ASEAN tới phụ nữ để chị em hiểu rõ về lợi ích cũng như thách thức khi đất nước hội nhập; tuyên truyền, vận động giúp phụ nữ nâng cao ý thức tự học, tự trang bị kiến thức và tự bảo vệ mình trong bối cảnh hội nhập; xây dựng, kết nối các kênh tư vấn, hỗ trợ phụ nữ khi tham gia các giao dịch quốc tế (đi lao động ở nước ngoài, lấy chồng nước ngoài…);tăng cường công tác tuyên truyền, vận động cán bộ, hội viên, phụ nữ hiểu và thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, luật pháp của Nhà nước về hội nhập quốc tế; nâng cao nhận thức về hội nhập quốc tế, những thuận lợi và khó khăn khi tham gia hội nhập qua đó giúp cán bộ, hội viên, phụ nữ tự tin hơn khi tham gia hội nhập.
 
Bên cạnh đó, Hội đẩy mạnh các hoạt động cụ thể hỗ trợ phụ nữ tham gia hội nhập như các hoạt động tín dụng tiết kiệm, dạy nghề, giới thiệu việc làm, phát triển doanh nghiệp nữ, kết nối doanh nghiệp nữ với thị trường nước ngoài; tiếp tục nghiên cứu đề xuất các chính sách để huy động, phát huy khả năng, tính sáng tạo của phụ nữ xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tri thức; nghiên cứu phát triển dịch vụ gia đình nhằm giúp phụ nữ thực hiện tốt hơn vai trò kép trong xã hội.
 
Đối với quốc tế:
 
Hội tuyên truyền cho bạn bè quốc tế hiểu rõ hơn về đất nước Việt Nam, về chính sách đối ngoại của Việt Nam, về phụ nữ Việt Nam và về Hội, qua đó tranh thủ tình cảm và sự ủng hộ của họ đối với Việt nam, góp phần tăng cường quan hệ giao lưu, hợp tác với các nước.
 
Phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác với phụ nữ và nhân dân các nước vì bình đẳng giới và sự phát triển của phụ nữ. Hiện nay, Hội có quan hệ với trên 300 tổ chức và cá nhân thuộc trên 60 quốc gia và vùng lãnh thổ.Hội là thành viên tích cực của Liên đoàn Phụ nữ Dân chủ Quốc tế (WIDF), Liên đoàn các Tổ chức Phụ nữ ASEAN (ACWO) và mới đây là được cấp Quy chế tư vấn của Hội đồng Kinh tế Xã hội Liên hợp quốc - ECOSOC...
 
Các hoạt động hữu nghị, hợp tác quốc tế giúp Hội học hỏi được kinh nghiệm quốc tế về phát triển phụ nữ, thúc đẩy bình đẳng giới; tranh thủ được sự ủng hộ của bạn bè, đối tác quốc tế cả về tinh thần, nguồn lực tài chính, chuyên môn, kỹ thuật cho phong trào phụ nữ và các hoạt động của Hội.
 
Ngoài ra, Hội tích cực:
 
Tham mưu để thực hiện tốt các cam kết quốc tế liên quan tới phụ nữ và bình đẳng giới mà Việt Nam tham gia như Công ước CEDAW, Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ, Cương lĩnh Hành động Bắc Kinh.
 
Nghiên cứu để có các hình thức tham gia lĩnh vực kinh tế đối ngoại, giúp nữ doanh nhân trong nước kết nối, hợp tác, tìm thị trường ở ngoài nước; nâng cao nhận thức và kỹ năng của phụ nữ trong hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là trong bối cảnh Cộng đồng ASEAN sắp chính thức hình thành.
 
Thúc đẩy công tác Phụ nữ Việt Nam ở Nước ngoài: Hội tăng cường kết nối với các tổ chức phụ nữ Việt Nam ở nước ngoài, chia sẻ kinh nghiệm hoạt động của Hội, tư vấn để có các hình thức tập hợp chị em giữ gìn và phát huy truyền thống và phẩm chất tốt đẹp của phụ nữ Việt Nam, góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tôn trọng và thực hiện tốt luật pháp nước sở tại, hướng về Tổ quốc và làm cầu nối trong quan hệ giữa Việt Nam với quốc tế. Gần đây Hội đã ra mắt trang web dành cho phụ nữ Việt Nam ở nước ngoài, làm nhịp cầu để chị em và con cái họ gần với quê hương hơn. Thực hiện Chỉ thị số 45-CT/TW, ngày 19/5/2015 của của Bộ Chính trị về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị khóa IX về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới, Hội sẽ thí điểm công nhận các tổ chức phụ nữ Việt Nam ở nước ngoài là thành viên của Hội.
 
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, xu thế di cư lao động, kết hôn quốc tế trở nên phổ biến. Hội phối hợp với các cơ quan chức năng trong nước và các đối tác nước ngoài góp phần bảo về phụ nữ trong các giao dịch có yếu tố nước ngoài (hôn nhân quốc tế, lao động di cư...).
 
Ban Quốc tế, TW Hội LHPN Việt Nam – Tháng 9/2015
 
Tài liệu tham khảo:
1          Hội nhập quốc tế: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của TS. Phạm Quốc Trụ (http://nghiencuubiendong.vn/toan-cau-hoa-hoi-nhap-kinh-te/2014-hoi-nhap-quoc-te-mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien).
2          Thành tựu của Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế thời kỳ đổi mới (http://truongchinhtribentre.edu.vn/noi-dung/thanh-tuu-cua-viet-nam-trong-qua-trinh-hoi-nhap-quoc-te-thoi-ky-doi-moi).
3          Tư tưởng của Hồ Chí Minh về Hội nhập và Hợp tác quốc tế trên Tạp chí Nhân quyền, số 5/2015.
4          Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam (http://dofabrvt.gov.vn/vn/WEB/268.chinh_sach_doi_ngoai_cua_dang_va_nha_nuoc_viet_nam.html)
5          Nghị quyết số 22 NQ-TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về Hội nhập quốc tế.
6          Bài viết “Xây dựng quan hệ với một số đối tác: Thực trạng, những vấn đặt ra trong việc tạo sự đan xen, gắn kết lợi ích giữa nước ta với các đối tác, nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế” của Trần Việt Thái, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược, Học viện Ngoại giao.
7          Bài trả lời phỏng vấn của Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam nhân kỉ niệm 70 năm thành lập nước.
8          Chuyên đề ASEAN – Ban QT

9          Báo cáo đánh giá giữa nhiệm kỳ việc thực hiện Nghị quyết Đại hội PNTQ nhiệm kỳ 2012 – 2017 của Hội. 

More

 

 

 

Bình chọn

Theo bạn thông tin nội dung website thế nào ?

Phong phú đa dạng
Dễ sử dụng
Hữu ích

123 người đã tham gia bình chọn