I. Khái niệm
Giới là một khái niệm mới xuất hiện ở nước ta vào cuối những năm 80. Sự ra đời khái niệm này nhằm làm rõ sự khác biệt giữa phụ nữ và nam giới trên hai khía cạnh khác nhau: xã hội và sinh học. Và khái niệm giới chỉ có thể hiểu đúng khi so sánh với khái niệm Giới tính.
1. Thế Giới tính là gì ?
Giới tính là một thuật ngữ khoa học, xuất phát từ môn sinh vật học, chỉ sự khác biệt giữa nam và nữ về mặt sinh học, liên quan đến quá trình tái sản xuất nòi giống, nó có tính bẩm sinh, không thể thay đổi được (sinh học: chủ yếu là sự khác biệt về bộ phận sinh sản; nam có tinh trùng, nữ có kinh nguyệt, mang thai, cho con bú )
=> Giới tính: là nói đặc trưng về sinh học, nó mang tính bẩm sinh, đồng nhất, không thể biến đổi.
=> Sự khác biệt này mang tính bẩm sinh và phổ thông giống nhau trên toàn thế giới không thay đổi được (trừ giải phẩu giới tính)
2. Giới ?Là một thuật ngữ xã hội học đề cập các mối quan hệ và tương quan về địa vị xã hội của phụ nữ và nam giới trong một bối cảnh cụ thể. Giới được xác định theo văn hóa và có thể thay đổi theo thời gian và những tác động bên ngoài, biến đổi theo chế độ xã hội và từng vùng, từng dân tộc (VD: CSNT, CHNL, PK (quần thể, phương thức sản xuất, hái lượm)
=> Giới là nói về mối quan hệ xã hội về nam nữ trên ba vấn đề: địa vị cao thấp, vai trò đối với xã hội ít hay nhiều, nhận thức của xã hội, vì vậy muốn tiến tới bình đẳng phải giải quyết 3 vấn đề này.
=> Do đó mà giới có thể thay đổi nhưng phải từ từ, không nóng vội.
Bác Hồ của chúng ta đã chỉ rõ: “Nhiều người lầm tưởng đó là một việc làm dễ, chỉ hôm nay anh nấu cơm, rửa bát, quét nhà, hôm sau em quét nhà, rửa bát, nấu cơm, thế là bình đẳng, bình quyền, thì lầm to. Đó là 1 cuộc cách mạng khá to và khá khó, vì trọng trai, khinh gái là thói quen mấy nghìn năm để lại, nó ăn sâu trong đầu óc mọi người, mọi gia đình, mọi tầng lớp xã hội, vì không thể dung vũ lực mà đấu tranh, mà vũ lực của cuộc cách mạng này là sự tiến bộ về chính trị, KT,VH, PL, phải cách mạng từng người, từng gia đình, đến toàn dân, và Bác khẳng định: Dù to, dù khó, nhưng nhất định thành công”.
II. Thế thì tại sao chúng ta phải quan tâm đến vấn đề Giới.
1. Sự đóng góp của phụ nữ trong hoạt động xã hội:
Như chúng ta biết, trong tiến trình lịch sử phát triển của đất nước, ở vào thời kỳ nào, phụ nữ việt nam vẫn là một nguồn nhân lực, trí tuệ dồi dào, có nhiều đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Ngày nay, chiếm 51,5% dân số, 48% lực lượng lao động xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng, phụ nữ Việt Nam đã có cơ hội và điều kiện tham gia hoạt động trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, kinh tế, văn hóa, lao động ở mỗi ngành nghề, chị em là những người trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất ra sản phẩm vật chất và tinh thần cho xã hội.Phụ nữ không chỉ cần cù trong lao động mà còn tham gia lãnh đạo trong các vị trí dân cử.Nhưng tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội chỉ đạt 24,4%; tỷ lệ nữ đại biểu HĐND cấp tỉnh là 25,7%, cấp huyện là 24,6% và cấp cơ sở là 27,7%.
Quảng Bình: cấp tỉnh: Ban chấp hành Tỉnh ủy có 04/52 đồng chí, chiếm tỷ lệ 7,69% (tăng 2,29%), Ban Thường vụ có 01/15 đồng chí, chiếm 6,67%; cấp huyện, thị xã, thành phố: Ban chấp hành có 56/336 đồng chí, chiếm 16,7% (tăng 2,8%), Ban Thường vụ có 9/94 đồng chí, chiếm 9,57% (tăng 1,62%); cấp xã, phường, thị trấn: Ban chấp hành có 25/2.278 đồng chí, chiếm 18,6% (tăng 2,89%), Ban Thường vụ có 67/706 đồng chí, chiếm 9% (tăng 1,98%).
Số lượng nữ tham gia HĐND các các cấp nhiệm kỳ 2016-2020 cấp tỉnh: 10/50 đồng chí, chiếm 20%; cấp huyện, thị xã, thành phố: 63/376 đồng chí, chiếm 25,5% (tăng 0,1%); cấp xã, phường, thị trấn: 795/3.974 đồng chí, chiếm 24,1% (tăng 4,1%).
Mặc dù đã xây dựng nhiều cơ chế, văn bản pháp luật nhằm tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia hoạt động xã hội và quản lý nhà nước, Việt Nam chỉ nằm ở nhóm trung bình trên bản đồ phụ nữ tham chính trên thế giới. Tỷ lệ nữ đại biểu HĐND có tăng so với nhiệm kỳ trước; song so với mục tiêu của Nghị quyết 11 của Bộ Chính trị, Chiến lược quốc gia về Bình đẳng giới vẫn còn khoảng cách khá lớn. Đặc biệt, nước ta còn tụt 31 bậc, xuống hạng thứ 54 trên bảng xếp hạng tỷ lệ phụ nữ tham chính toàn cầu từ năm 2005 đến năm 2015. Vị thứ này rất khiêm tốn so với nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á như Nepal (thứ 39), Philippines (thứ 45), Lào (thứ 53).
[1]
Định kiến giới từ xã hội cũng như từ chính bản thân nữ giới là một trong những rào cản chính khi phụ nữ tham chính một khảo sát gần đây cho thấy, quan niệm về vai trò truyền thống của giới vẫn còn in đậm trong xã hội và các thể chế của việt Nam. Một báo cáo cùng năm của Học viện Phụ nữ Việt Nam cũng nêu rõ: sự thiếu tự tin khiến một số phụ nữ khá trầm lặng khi tham gia đời sống chính trị.
2. Sự chênh lệch trong hưởng thụ:
Tỷ lệ nữ làm việc trong một số ngành chiếm tỷ trọng lớn, như dệt may trên 70%, nông, lâm nghiệp-thủy sản 53,7%, thương mại… Tỷ lệ nữ tham gia quản lý, điều hành DN là hơn 20%, khá cao so với khu vực và thế giới; những DN do phụ nữ làm chủ thường có sự phát triển toàn diện, bền vững hơn và tham gia tốt hơn trong công tác xã hội… Thu nhập bình quân đầu người 1 tháng của hộ gia đình do nữ làm chủ hộ cao hơn 22,4% so với con số tương ứng của hộ do nam giới làm chủ hộ.
Về giáo dục, đào tạo, nữ giới có nhiều đóng góp to lớn. Giáo viên nữ giới chiếm tỷ lệ khá cao: Chiếm tỷ lệ gần như tuyệt đối ở hệ mẫu giáo; chiếm 70,9% bậc phổ thông (tiểu học 77,4%, trung học cơ sở 67,9%, trung học phổ thông 61,2%); chiếm 48,9% giảng viên đại học, cao đẳng, 41,2% giảng viên trung cấp chuyên nghiệp
Theo số liệu thống kê về giới gần đây nhất.Những phát hiện chính của nghiên cứu cho thấy, năm 2015, người Việt Nam trưởng thành (20 tuổi trở lên) đã dành 22,3 giờ một tuần cho công việc được trả công trên thị trường và 32,6 giờ một tuần cho công việc chăm sóc và công việc gia đình không được trả công.Đối với phụ nữ, số giờ làm việc một tuần cho công việc được trả công trên thị trường là 19,7 giờ và dành 38,7 giờ một tuần cho công việc chăm sóc và công việc gia đình; trong khi ấy nam giới là 25,1 giờ và 26,2 giờ. Nghiên cứu cũng chỉ ra, ở Việt Nam, công việc chăm sóc và công việc nhà không được trả công chiếm 61% tổng thời gian làm việc, trong đó phụ nữ thực hiện 60%. Phụ nữ cũng tham gia 45% công việc trên thị trường. Trẻ em gái dành ít thời gian cho việc học hơn so với các em trai. Ở tuổi 18, các em gái và em trai đã dành 28 giờ và 33 giờ mỗi tuần tương ứng đến trường và học tập.
Sự đóng góp của phụ nữ trên tất cả các lĩnh vực là to lớn như vậy nhưng trong thực tế của xã hội hiện nay vẫn còn nhiều bất đồng, nhiều chênh lệch trong hưởng thụ giữa nam giới và phụ nữ.
Cùng có 3 vai trò như nhau: lao động sản xuất, sinh sản và nuôi dưỡng, hoạt động cộng đồng nhưng phụ nữ và nam giới đối với các vai trò đó khác nhau (phân tích ngắn).
Trong thực tế hiện nay, phụ nữ thường làm nhiều công việc cùng một lúc, thời gian làm việc của phụ nữ nhiều hơn và phụ nữ cũng làm những công việc đơn giản hơn à như vậy phụ nữ thể hiện đa vai trò hơn. Song phụ nữ lại làm những việc có giá trị thấp à vì vậy giá trị xã hội của phụ nữ cũng thấp.Còn về việc nhà là loại công việc quan trọng vì nó giúp gia đình tồn tại nhưng lại không được xã hội nhìn nhận và chính bản thân nam giới cũng không coi trọng công việc gia đình. Do vậy vị trí càng thấp, mà khi vị trị thấp nên ít được lựa chọn công việc mà làm theo sự phân công truyền thống.
Nếu đi sâu phân tích vai trò của giới chúng ta càng thấy sự chênh lệch giưa phụ nữ - nam giới:
3. Những thiên kiến, định kiến về phụ nữ trong xã hội:
Trong xã hội phong kiến với tư tưởng “trọng nam khinh nữ” đã đề cao vai trò của nam giới và đẩy phụ nữ xuống vị trí thấp hèn. Người phụ nữ bị trói buộc trong phạm vi gia đình và hoàn toàn phụ thuộc vào nam giới “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” (Người phụ nữ ở nhà phải theo cha, lấy chồng phải theo chồng, chồng chết phải theo con trai)
+ Hoặc nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô (có 1 con trai đã coi là có con, có mười con gái vẫn coi là như không)
+ Hoặc nói về thân phận người phụ nữ như:
“Anh như chỉ gấm thêu cờ
Em như rau má dọc bờ giếng khơi”
“Thân em như giếng giữa đàng
Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân”
“lấy chồng thì phải theo chồng
Đắng cay phải chịu, mặn nồng phải theo”
“Đàn ông nông nổi giếng khơi
Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu”
-> Những thái độ đối xử bất bình đẳng đối với phụ nữ do chính con người đặt ra được truyền từ người này sang người khác, đời này sang đời khác thông qua giáo dục và học hỏi, lâu dần tạo nên những định kiến về vai trò địa vị và khả năng thấp kém của phụ nữ.
à Xã hội ngày nay đã có nhiều thay đổi về cách nhìn nhận và đánh giá phụ nữ, những nhận thức sai lệch trên đã dần dần được thay đổi và thay vào đó là:
“Ruộng sâu, trâu nái không bằng con gái đầu lòng”
“Trai là chi, gái là chi
Sinh ra có nghĩa , có nghi là hơn”
“Chồng ơi buông áo em ra
Để em đi chợ khéo mà chợ trưa
Chợ trưa rau héo ai mua
Lấy gì nuôi mẹ, lấy gì nuôi anh”
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
“Nhất vợ nhì trời”
“Lệnh ông không bằng công bà”
“Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm”
“Phúc đức tại mẫu”
-> Nói lên vai trò, vị trí của phụ nữ việt nam trong gia đình, cũng như ngoài xã hội.
-> Tuy nhiên tư tưởng “ trọng nam khinh nữ và những định kiến đối với phụ nữ vẫn còn tồn tại đã tác động tiêu cực đến cuộc sống, địa vị của phụ nữ, gia đình và ngoài xã hội, ảnh hưởng đến sự tự tin và tính chu động của phụ nữ trong công việc. à Từ đó vấn đề bất bình đẳng xảy ra là như vậy.
- Của chồng, công vợ
- Ðạo vợ, nghĩa chồng
- Trai anh hùng, gái thuyền quyên
- Chồng như đó, vợ như hom
- Giàu về bạn, sang về vợ
- Thuyền theo lái, gái theo chồng
- Chồng tới vợ lui, chồng hòa vợ thuận.
- Thuận vợ thuận chồng, Tát bể Ðông cũng cạn.
Vợ chồng là nghĩa già đời
Ai ơi, chớ nghĩ những lời thiệt hơn
Chàng ơi đưa gói thiếp mang
Ðưa gươm thiếp vác, cho chàng đi không.
Có chồng thì phải theo chồng
Chồng đi hang rắn, hang rồng cũng theo.
Khôn ngoan cũng thể đàn bà
Dẫu rằng vụng dại cũng là đàn ông.
Vì chồng nên phải gắng công
Nào ai xương sắt, da đồng chi đây.
Đêm nay cò ngủ giấc tròn
Không phải gánh gạo nuôi con nuôi chồng.
Sáng nay cò ra bờ sông
Cái cò nhìn thấy cò chồng lom khom
Gạt đi những rác cùng rơm
Cò chồng bắt tép bắt tôm mang về.
Cái cò hạnh phúc tràn trề
Cò chồng thấy vậy hả hê trong lòng
Nhớ ngày cò cái gánh gồng
Một thân cò cái lo trong lo ngoài.
Cuộc đời ắt hẳn còn dài
Cò chồng quyết chí miệt mài hơn xưa.
Cho cò cái giấc ngủ trưa,
Bù đắp cò cái khi xưa gánh gồng
III.GIỚI THIỆU CÁC QUAN ĐIỂM VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
Bác từng nói: “Giang sơn gấm vóc Việt Nam là do phụ nữ Việt Nam, trẻ cũng như già, dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ”.
Trong bản Di chúc, Người viết: “Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, phụ nữ đảm đang đã góp phần xứng đáng trong chiến đấu và trong sản xuất. Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc, kể cả công việc lãnh đạo.Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên”.
Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến thực hiện mục tiêu về bình đẳng giới và sự phát triển của phụ nữ, đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, luật pháp tạo điều kiện cho phụ nữ tiến bộ và tạo được bình đẳng.Quyền của phụ nữ tham gia vào các hoạt động chính trị: Hiến pháp(Điều 7, 16 26, 27); Nghị quyết 11 Của Bộ Chính trị; Chiến lược Quốc gia về Bình đẳng Giới; Luật Bầu cử; Luật Bình đẳng Giới (Điều 11)
- Trong giai đoạn từ năm 1975 - 1976, số lượng đại biểu nữ đạt mức cao nhất là 32% (khóa v);Giảm còn 24,4% trong năm 2011 (khóa XIII).133 đại biểu nữ / 496 đại biểu (khóa XIV).Tuy nhiên, sự hiện diện, tiếng nói ý kiến, quan điểm của Nữ đại biểu Quốc hội đang ngày càng trở nên quan trọng:
Hiện nay, ngày càng có nhiều phụ nữ tham gia vào hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội và giữ những vị trí quan trọng trong hệ thống chính trị và bộ máy Nhà nước:
- Ở TW, có 3 nữ Ủy viên Bộ Chính trị (Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, TB Dân Vận TW),1 nữ Phó Chủ tịch nước.
- Ở địa phương, có nhiều đồng chí nữ là Bí thư Tỉnh ủy (Vĩnh Phúc, An Giang, Ninh Bình, Yên Bái), Chủ tịch HĐND (HCM, Hà Nội, Quảng Ngãi, Kiên Giang, Bình Phước, Bắc Ninh, Bạc Liêu).
Trình bày về các vấn đề của phụ nữ nhiều hơn so với các đại biểu Quốc hội là nam giới: Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, Luật Đất đai, vấn đề tuổi nghỉ hưu…
Số lượng nữ đại biểu đứng ra bênh vực và bảo vệ cho quyền lợi của phụ nữ nhiều hơn so với nam giới.
Số lần các nữ đại biểu Quốc hội tham gia phản biện luật và chất vấn bộ trưởng ngang bằng so với các đại biểu nam giới.
Những rào cản phụ nữ trong các vị trí quản lý, lãnh đạo
Phụ nữ gặp phải rất nhiều những rào cản trong lĩnh vực chính trị, điều này đã hạn chế cơ hội của họ trong việc tham gia vào các vị trí lãnh đạo, quản lý hoặc các vị trí dân cử.
Những rào cản này có thể được chia thành 2 loại:
- Những rào cản về thể chế.
- Những rào cản về quan niệm xã hội.
Những rào cản này tác động tới người phụ nữ theo những cách khác nhau và không phải tất cả mọi phụ nữ đều gặp phải các rào cản như nhau.
Rào cản về thể chế:
Sự khác biệt trong độ tuổi nghỉ hưu giữa nam và nữ theo quy định trong bộ Luật Lao động:
- Phụ nữ có thời gian làm việc ngắn hơn, cũng như sẽ có ít thời gian hơn để thăng tiến trong công việc so với các đồng nghiệp là nam giới;
- Hệ quả là các cơ hội thăng tiến, đào tạo, quy hoạch và luân chuyển đều bị hạn chế;
- Phụ nữ cũng có tổng thu nhập thấp hơn so với nam giới;
- Điều đáng nói nhất ở đây chính là việc các cán bộ nữ phải nghỉ hưu khi họ đang trong độ chín về kiến thức và kinh nghiệm.
Cán bộ, công chức nữ sẽ mất cơ hội được đưa vào quy hoạch nếu ở tuổi 46 hoặc mất cơ hội được bổ nhiệm nếu ở tuổi 51 do không đủ tuổi để làm việc thêm 2 nhiệm kỳ (10 năm) hoặc ít nhất một nhiệm kỳ trước nghỉ hưu.
Hơn nữa, chênh lệch trong tuổi nghỉ hưu cũng làm giảm cơ hội được đào tạo, luân chuyển để trau dồi kinh nghiệm hoặc thăng tiến của nữ giới; dẫn đến khả năng trúng cử thấp hơn so với nam giới.
Bình đẳng Giới
- Nam giới và nữ giới cùng có điều kiện bình đẳng:
+ Để phát huy hết năng lực, khả năng của mình;
+ Để thực hiện các mong muốn, khát vọng;
+ Để tham gia, đóng góp và thụ hưởng từ các nguồn lực xã hội ;
+ Được hưởng chất lượng cuộc sống, thành quả xã hội một cách bình đẳng;
+ Được tham gia bình đẳng trong quá trình xây dựng và phát triển xã hội.
- Bình đẳng không có nghĩa là không có sự khác biệt về giới tính, những điểm đặc trưng của nam giới và nữ giới;
- Bình đẳng không có nghĩa là nam giới và nữ giới giống nhau về mọi mặt.
* Quan niệm về bình đẳng giới hiện nay là: Sự tương đồng và có khác biệt của giới nam, giới nữ được thừa nhận và được coi trọng như nhau.
Ranh giới giữa phân biệt đối xữ và văn hóa:
Ranh giới giữa phân biệt đối xữ và văn hóa là mong manh, dễ bị đánh đồng giữa thiên chức, vai trò, trách nhiệm và việc tôn vinh đức tính của người phụ nữ.
* Thiên chức là giá trị cao quý đặc thù vốn có ở người phụ nữ: Đó làm Mẹ, đó là mang thai, sinh con và cho con bú bằng sữa mẹ.
* Trách nhiệm: Xây dựng tổ ấm, chăm lo, nuôi dưỡng và dạy dỗ con cái, quán xuyến nhà cửa, tổ chức sinh họat gia đình, phụ trách chi tiêu, chăm sóc cha mẹ già, làm hậu phương, là chỗ dựa tinh thần cho các thành viên trong gia đình; (là của mọi người cùng nhau chia sẽ).
* Những đức tính quý báu vốn có ở người phụ nữ như: Sự khéo léo, tinh tế, sự tận tụy hy sinh, lòng bao dung, tình thương yêu chồng con, sự đằm thắm dịu dàng, chịu thương chịu khó, dám đương đầu với những khó khăn gian khổ.
“Đằng sau những người đàn ông thành đạt luôn có bóng dáng của những người phụ nữ nhưng đằng sau những người phụ nữ thành công là cả một nghệ thuật”.
Những vấn đề đặt ra:
-> Thứ nhất, những khó khăn về quỹ thời gian và sức khỏe.
-> Thứ hai, khó khăn trong việc giải quyết hài hòa các mối quan hệ trong gia đình và ngoài xã hội (đối nội, đối ngoại).
-> Thứ ba, khó khăn trước những định kiến của các thành viên trong gia đình, sự gia trưởng của người chồng.
-> Thứ tư, khó khăn trước việc phấn đấu để đạt được các mục tiêu cao trong công việc và hạnh phúc gia đình.
-> Thứ năm, giải quyết mâu thuẫn giữa mong muốn tham chính với mong muốn phát triển kinh tế gia đình.
Để có thể vượt qua những khó khăn nêu trên, làm tốt vai trò kép của mình, chị em phụ nữ, một mặt phải tự điều chỉnh mình, mặt khác, phải tìm kiếm sự chia sẻ.
Bên cạnh đó, cần phải có những chính sách hỗ trợ để chị em thực hiện tốt cả hai vai trò mà không phải chịu nhiều áp lực.
Kinh nghiệm giải quyết.
- Bố trí công việc giữa gia đình và xã hội cho khoa học.
- Cần dành thời gian cho gia đình và con cái.
- Cần có sự sắp xếp thời gian phù hợp, một khi đã dành thời gian cho gia đình thì nên dành trọn vẹn, không có sự lẫn lộn giữa việc cơ quan và gia đình.
- Biết quản lý tốt thời gian, ứng dụng những tiến bộ khoa học để tổ chức tốt cuộc sống gia đình.
- Phải tự mình thoát ra và vận động các thành viên trong gia đình thoát ra khỏi suy nghĩ "việc nhà là của phụ nữ“.
- Không chỉ người vợ, người mẹ phải quan tâm, chăm sóc chồng, con mà phải tiến tới các thành viên trong gia đình chăm sóc nhau.
- Phụ nữ tham chính cần phải đặt đúng vai của mình ở từng vị trí: Ở cơ quan là đồng nghiệp, là thủ trưởng; ở gia đình phụ nữ là con dâu, là người vợ, là người mẹ...
Cần phải học tập cách giao tiếp để đảm bảo giữ được mối quan hệ hài hòa giữa gia đình và xã hội, trong các mối quan hệ, trong giao tiếp với cấp trên, đối tác
- Sử dụng ưu thế về sự khéo léo, sự dẻo dai, mềm mại của người phụ nữ để thuyết phục, vận động cũng như chia sẻ, tâm sự, tìm sự đồng cảm từ các thành viên trong gia đình.
- Cần phải tạo dựng được niềm tin, sự chia sẻ đối với thành viên trong gia đình.
- Bằng sự quan tâm, chăm sóc thực lòng đối với gia đình, hiểu chồng, chăm sóc cho chồng con đầy đủ; tạo những buổi trò chuyện, những bữa cơm thân mật trong gia đình.
Phụ nữ tham chính cần sức khỏe để làm việc và cần tự tin để giao tiếp xã hội. Vì vậy:
- Cần phải được trang bị những kiến thức về chăm sóc, bảo vệ sức khỏe của mình.
- Cần thiết phải sắp xếp thời gian để luyện tập thể lực, tham gia các chương trình thể thao để giữ gìn, bảo vệ sức khỏe.
- Có chế độ ăn uống phù hợp, đảm bảo dinh dưỡng, phù hợp lứa tuổi.
- Chị em cũng cần quan tâm đến ngoại hình, cách ăn mặc, không chỉ đẹp, duyên dáng khi đi ra ngoài mà còn phải luôn chỉnh chu trong chính gia đình, đối với người thân của mình.
- Để giảm bớt áp lực về tâm lý, chị em cũng cần có những mối quan hệ thân thiện bên ngoài công việc, bên ngoài (nhóm bạn...), có những khoảng thời gian dành riêng cho mình để chia sẻ và thư giãn.
Tuy nhiên, cũng cần biết giới hạn và cần có sự đồng thuận của các thành viên trong gia đình để những cuộc vui với bạn bè được bổ ích và trọn vẹn.
Để thực hiện bình quyền, bình đẳng nam nữ, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Về phần mình, chị em phụ nữ không nên ngồi chờ Chính phủ, chờ Đảng ra chỉ thị giải phóng cho mình, mà tự mình phải tự cường, phải đấu tranh”.
Bình đẳng thật sự cho phụ nữ phải từ chính nội lực của phụ nữ
Bản thân phụ nữ phải cố gắng vươn lên, đó là cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ”
Đó là trao đổi của Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam Nguyễn Thị Thanh Hòa với phóng viên Báo Điện tử Chính phủ nhân kỷ niệm 105 năm Ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3.
* Bình đẳng giới là phụ nữ và nam giới đều hạnh phúc (hạnh phúc là trên con đường chúng ta đi luôn có sự đồng hành chia sẽ của cả nam giới và phụ nữ)
- Bình đẳng giới không phải chỉ vì phụ nữ, cũng không phải chỉ là vấn đề của phụ nữ mà còn là vì nam giới, là vấn đề của cả nam giới.
- Để có sự bình đẳng giới một cách thiết thực, đòi hỏi phải có sự tham gia của cả nam giới và nữ giới.
ĐẤU TRANH VÌ NỮ QUYỀN KHÔNG PHẢI LÀ GHÉT NAM GIỚI
Nam giới vì phụ nữ hay vì những người phụ nữ quanh ta
- Nam giới là đồng minh, là đối tác.
- Nam giới là một nữa của nhân loại hỗ trợ cho “nữa kia” là phụ nữ vì lợi ích của tất cả.
- Người phụ nữ không nên coi thường mình.
- Người đàn ông cũng phải thấy được giá trị cao quý của người phụ nữ để có thái độ trân trọng và cư xử đúng mực.
Điều quan trọng là thiết lập được các mối quan hệ tốt trên cơ sở của sự hiểu biết, tình yêu thương và tôn trọng lẫn nhau, đó là con đường hạnh phúc, mục tiêu sau cùng của cuộc sống