NHỮNG ĐIỂM MỚI TRONG LUẬT SỬA ĐỔI BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT BẢO HIỂM Y TẾ

Font size : A- A A+
 
Luật Bảo hiểm y tế số 25/2008/QH12 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII thông qua ngày 14 tháng 11 năm 2008, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2009. Sau 3 năm triển khai thực hiện, bên cạnh những kết quả đã đạt được vẫn còn một số khó khăn, vướng mắc do thực tế nảy sinh, do một số quy định không còn phù hợp với thực tiễn cần phải được nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung.

Ngày 13/6/2014, Quốc Hội khóa XIII đã ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015. Luật sửa đổi bổ sung có nhiều điểm mới nổi bật như sau:  

 
1. Mở rộng đối tượng tham gia
 
Để đạt mục tiêu BHYT bao phủ toàn dân, Luật quy định “Bảo hiểm y tế là hình thức bảo hiểm bắt buộc” nhằm khẳng định mọi đối tượng bắt buộc phải tham gia BHYT. Do đó, 25 nhóm đối tượng tham gia BHYT quy định tại Điều 12 được sắp xếp thành 5 nhóm theo trách nhiệm đóng BHYT, trong  đó mỗi nhóm đều mở rộng đối tượng (trừ nhóm được Nhà nước hỗ trợ đóng), cụ thể:
 
- Bổ sung nhóm đối tượng do người lao động và người sử dụng lao động đóng: Người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn theo quy định của pháp luật.
 
- Bổ sung đối tượng được đóng BHYT bằng ngân sách Nhà nước: Người đang sinh sống tại xã đảo, huyện đảo.
 
- Bổ sung đối tượng được BHXH đóng BHYT: Người đang hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng mắc bệnh thuộc danh mục bệnh cần chữa trị dài ngày; Người từ đủ 80 tuổi trở lên đang hưởng trợ cấp tuất hằng tháng.
 
- Thành viên trong hộ gia đình (trừ trường hợp đã tham gia BHYT theo hợp đồng lao động, theo chế độ với người có công, bảo trợ xã hội, học sinh sinh viên…) cũng sẽ phải tham gia BHYT.
 
Để thực hiện hình thức tham gia BHYT theo hộ gia đình, Luật đã bổ sung khái niệm “Hộ gia đình tham gia bảo hiểm y tế (sau đây gọi chung là hộ gia đình) bao gồm toàn bộ người có tên trong sổ hộ khẩu hoặc sổ tạm trú.
 
2. Mức đóng và trách nhiệm đóng bảo hiểm y tế
 
- Mức đóng hằng tháng của người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn: tối đa bằng 6% mức lương cơ sở, trong đó người sử dụng lao động đóng 2/3 và người lao động đóng 1/3
 
- Mức đóng theo hộ gia đình: Quy định giảm dần mức đóng BHYT khi toàn bộ các thành viên trong hộ gia đình tham gia BHYT nhằm giảm gánh nặng tài chính cho hộ gia đình có nhiều người tham gia BHYT, khuyến khích người dân tham gia cho tất cả các thành viên trong hộ mức đóng cụ thể như sau:
 
+ Người thứ nhất đóng tối đa bằng 6% mức lương cơ sở
 
+ Người thứ hai, thứ ba, thứ tư đóng lần lượt bằng 70%, 60%, 50% mức đóng của người thứ nhất;
 
+ Từ người thứ năm trở đi đóng bằng 40% mức đóng của người thứ nhất.
 
- BHXH chịu trách nhiệm đóng BHYT cho người đang nghỉ thai sản
 
Trong thời gian người lao động nghỉ việc hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội thì mức đóng hằng tháng tối đa bằng 6% tiền lương tháng của người lao động trước khi nghỉ thai sản và do tổ chức bảo hiểm xã hội đóng.
 
3. Sửa đổi một số quy định liên quan đến trẻ dưới 6 tuổi
 
Về cấp thẻ BHYTcho trẻ dưới 6 tuổi  
 
Theo quy định tại khỏan 2 Điều 17 Luật 2008 quy định . Hồ sơ cấp thẻ bảo hiểm y tế đối với trẻ em dưới 6 tuổi bao gồm: “a) Bản sao giấy chứng sinh hoặc bản sao giấy khai sinh. Trường hợp trẻ em chưa có bản sao giấy chứng sinh hoặc bản sao giấy khai sinh thì phải có giấy xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú của cha, mẹ hoặc người giám hộ; b) Danh sách hoặc giấy đề nghị cấp thẻ bảo hiểm y tế của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi trẻ em cư trú”.
 
Để cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân trong quá trình thực hiện, Luật BHYT đã sửa đổi: Hồ sơ cấp thẻ BHYT cho trẻ em dưới 6 tuổi không cần bản sao giấy chứng sinh hoặc giấy khai sinh, ngoài tờ khai tham gia bảo hiểm y tế chỉ cần bổ sung danh sách tham gia bảo hiểm y tế do UBND xã lập.
 
 Về thời điểm thẻ BHYT có giá trị sử dụng đối với trẻ em dưới 6 tuổi.
 
 Luật BHYT tiếp tục quy định “đối với trẻ em dưới 6 tuổi thì thẻ bảo hiểm y tế có giá trị sử dụng đến ngày trẻ đủ 72 tháng tuổi” đồng thời bổ sung quy định: ”Trường hợp trẻ đủ 72 tháng tuổi mà chưa đến kỳ nhập học thì thẻ bảo hiểm y tế có giá trị sử dụng đến ngày 30 tháng 9 của năm đó.”
 
Một  trong các trường hợp không được hưởng bảo hiểm y tế là “ Điều trị lác, cận thị và tật khúc xạ của mắt”, tuy nhiên Luật đã sửa đổi và bổ sung “trừ trường hợp trẻ em dưới 6 tuổi”. Nghĩa là ,đối với trẻ em dưới 6 tuổi  trong trường hợp điều trị lác, cận thị và tật khúc xạ của mắt vẫn được hưởng bảo hiểm y tế.
 
4. Thay đổi về mức hưởng bảo hiểm y tế
 
- Mở rộng đối tượng được hưởng 100% chi phí khám chữa bệnh như: binh sỹ quân đội đang tại ngũ; học viên công an nhân dân; cựu chiến binh; người được hưởng BHXH hàng tháng; người thuộc hộ gia đình nghèo; cha đẻ, mẹ đẻ, vợ/chồng, con của liệt sỹ…
 
Đặc biệt đối tượng đóng BHYT liên tục trên 5 năm, đã thanh toán tiền khám chữa bệnh trong năm lớn hơn 6 tháng lương cơ sở cũng được hưởng 100% trừ trường hợp tự đi khám bệnh, chữa bệnh không đúng tuyến (trái tuyến).
 
- Tăng mức hưởng BHYT của thân nhân người có công cách mạng và người thuộc hộ gia đình cận nghèo từ 80% lên 95%.
 
- Mức hỗ trợ cho người có thẻ BHYT tự đi khám bệnh, chữa bệnh không đúng tuyến (khám, chữa bệnh trái tuyến) được quy định như sau:
 
+ Tại bệnh viện tuyến trung ương là 40% chi phí điều trị nội trú;
 
+ Tại bệnh viện tuyến tỉnh là 60% chi phí điều trị nội trú từ ngày Luật này có hiệu lực đến ngày 31 tháng 12 năm 2020; 100% chi phí điều trị nội trú từ ngày 01 tháng 01 năm 2021 trong phạm vi cả nước;
 
+ Tại bệnh viện tuyến huyện là 70% chi phí khám bệnh, chữa bệnh từ ngày Luật này có hiệu lực đến ngày 31 tháng 12 năm 2015; 100% chi phí khám bệnh, chữa bệnh từ ngày 01 tháng 01 năm 2016.
 
- Từ ngày 01 tháng 01 năm 2016, người tham gia bảo hiểm y tế đăng ký khám bệnh, chữa bệnh ban đầu tại trạm y tế tuyến xã hoặc phòng khám đa khoa hoặc bệnh viện tuyến huyện được quyền khám bệnh, chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế tại trạm y tế tuyến xã hoặc phòng khám đa khoa hoặc bệnh viện tuyến huyện trong cùng địa bàn tỉnh, với mức hưởng 100% chi phí khám bệnh, chữa bệnh.
 
- Đối với  người dân tộc thiểu số và người thuộc hộ gia đình nghèo tham gia bảo hiểm y tế đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; người tham gia bảo hiểm y tế đang sinh sống tại xã đảo, huyện đảo khi tự đi khám bệnh, chữa bệnh không đúng tuyến được quỹ bảo hiểm y tế thanh toán 100% chi phí khám bệnh, chữa bệnh đối với bệnh viện tuyến huyện, điều trị nội trú đối với bệnh viện tuyến tỉnh, tuyến trung ương.
 
- Từ  ngày 01 tháng 01 năm 2021, quỹ bảo hiểm y tế chi trả 100% chi phí điều trị nội trú cho người tham gia bảo hiểm y tế khi tự đi khám bệnh, chữa bệnh không đúng tuyến tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tuyến tỉnh trong phạm vi cả nước.

 

 

 

5. Tăng mức phạt đối với tổ chức trốn đóng BHYT
 
Cơ quan, tổ chức, người sử dụng lao động có trách nhiệm đóng bảo hiểm y tế mà không đóng hoặc đóng không đầy đủ thì không những phải “đóng đủ số tiền chưa đóng và nộp số tiền lãi bằng hai lần mức lãi suất liên ngân hàng” (tăng gấp đôi so với trước đây). Đồng thời, người sử dụng lao động còn phải hoàn trả toàn bộ chi phí cho người lao động trong phạm vi quyền lợi, mức hưởng bảo hiểm y tế mà người lao động đã chi trả trong thời gian chưa có thẻ bảo hiểm y tế.
 
Ngoài các nội dung trên, Luật còn bổ sung  trách nhiệm của Bộ Y tế trong việc “Ban hành quy định chuyên môn kỹ thuật, quy trình khám bệnh, chữa bệnh và hướng dẫn điều trị; chuyển tuyến liên quan đến khám bệnh, chữa bệnh BHYT;  Ban hành gói dịch vụ y tế cơ bản do quỹ bảo hiểm y tế chi trả”; Bổ sung điều 7a, 7b, 7c quy định về trách nhiệm của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Giáo dục và Đào tạo Quốc phòng và Bộ Công an.
 

 

More

 

 

 

Bình chọn

Theo bạn thông tin nội dung website thế nào ?

Phong phú đa dạng
Dễ sử dụng
Hữu ích

123 người đã tham gia bình chọn