NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA LUẬT BHXH (SỬA ĐỔI)

Font size : A- A A+

 

Ngày 20/11/2014, tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật BHXH (sửa đổi), có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2016. Là cơ quan nhà nước có chức năng thực hiện chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT), quản lý và sử dụng các quỹ BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp (BHTN); thanh tra việc đóng BHXH, BHTN, BHYT và nhiệm vụ khác, BHXH Việt Nam đang khẩn trương chuẩn bị các điều kiện cần thiết để triển khai thực hiện Luật BHXH (sửa đổi) (sau đây gọi chung là Luật BHXH 2014). 

 
Nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế trong chính sách, pháp luật BHXH hiện hành cũng như những khó khăn, bất cập trong tổ chức thực hiện nhằm mục tiêu thực hiện BHXH cho mọi người lao động, Luật BHXH (sửa đổi) đã có thêm nhiều quy định mới với những mục tiêu cụ thể:
 
I. Về kết cấu: Luật BHXH (sửa đổi) có 9 chương và 125 điều, Luật  BHXH kế thừa kết cấu của Luật hiện hành trên cơ sở bỏ một chương về BHTN, (chuyển nội dung BHTN sang Luật Việc làm); gộp Chương IX Khiếu nại, tố cáo về BHXH và Chương X Khen thưởng và xử lý vi phạm của Luật hiện hành thành một chương. 
 
II. Về những quy định chung
 
1. Phạm vi áp dụng
 
- Bỏ quy định áp dụng đối với BHTN (đã được quy định tại Luật Việc làm);
 
- Bổ sung tổ chức đại diện tập thể lao động, tổ chức đại diện người sử dụng lao động. Vì đây là những chủ thể tham gia giám sát bảo vệ quyền lợi người lao động và người sử dụng lao động.
 
2. Đối tượng áp dụng BHXH
 
2.1. Đối tượng áp dụng BHXH bắt buộc
 
Ngoài việc, luật hóa một số nhóm đối tượng đã được thực hiện ổn định theo các văn bản hướng dẫn Luật BHXH năm 2006 như: học viên quân đội, công an, cơ yếu đang theo học được hưởng sinh hoạt phí; người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã có hưởng tiền lương; để mở rộng phạm vi bao phủ BHXH theo mục tiêu mà Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 22/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH, BHYT giai đoạn 2012-2020 đã đặt ra (đến năm 2020 có khoảng 50% lực lượng lao động tham gia BHXH, tương đương khoảng 28 triệu người, trong đó có 25 triệu người tham gia BHXH bắt buộc và 03 triệu người tham gia BHXH tự nguyện), Luật BHXH 2014 bổ sung một số nhóm đối tượng sau:
 
- Người lao động làm việc theo mùa vụ hợp đồng lao động từ 01 đến dưới 03 tháng (Điểm b, Khoản 1, Điều 2 thực hiện từ 01/01/2018 để đảm bảo tính khả thi do trước mắt việc quản lý đối với đối tượng này là hết sức khó khăn);
 
- Công dân nước ngoài làm việc tại Việt Nam có giấy phép lao động hoặc chứng chỉ hành nghề hoặc giấy phép hành nghề (Khoản 2, Điều 2 thực hiện từ 01/01/2018 theo quy định của Chính phủ);
 
- Người đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng quy định tại Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài  theo hợp đồng. (Điểm g, Khoản 1, Điều 2 tham gia BHXH đối với 2 chế độ hưu trí và tử tuất). Đối tượng này tuy cũng đã được quy định trong Luật BHXH 2006 nhưng mới chỉ áp dụng đối với người mà trước đó đã có thời gian tham gia BHXH bắt buộc;
 
- Người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn (Điểm i, Khoản 1, Điều 2 tham gia BHXH đối với 2 chế độ hưu trí và tử tuất).
 
2.2. Đối tượng áp dụng BHXH tự nguyện
 
- Bỏ quy định về giới hạn tuổi trần tham gia BHXH tự nguyện để tạo điều kiện cho những người từ đủ 45 tuổi trở lên đối với nam, 40 tuổi trở lên đối với nữ được tham gia BHXH tự nguyện. Hiện nay khoảng trên 30 triệu đối tượng tiềm năng bao gồm nông dân và người lao động trong khu vực phi chính thức;
 
- Cùng với việc bỏ giới hạn về trần tuổi tham gia BHXH tự nguyện, để khuyến khích người dân tham gia BHXH tự nguyện, Luật BHXH 2014 đã giảm mức sàn thu nhập thấp nhất làm căn cứ đóng BHXH từ mức lương tối thiểu chung (nay là mức lương cơ sở) xuống bằng mức chuẩn hộ nghèo của khu vực nông thôn và cao nhất bằng 20 lần mức lương cơ sở (Khoản 1 Điều 87) để phù hợp với khả năng tham gia của người dân. Đồng thời, Luật còn quy định: Nhà nước có chính sách hỗ trợ người tham gia BHXH tự nguyện (khoản 2 Điều 6) và Chính phủ căn cứ vào điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, khả năng của ngân sách Nhà nước trong từng thời kỳ để quy định mức hỗ trợ, đối tượng hỗ trợ và thời điểm thực hiện chính sách hỗ trợ tiền đóng BHXH cho người tham gia BHXH tự nguyện (Khoản 1 và Khoản 3 Điều 87).
 
3. Về quản lý nhà nước về BHXH: Bổ sung thêm 3 điều (từ Điều 10 đến Điều 12) quy định trách nhiệm cụ thể của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ trưởng Bộ Tài chính, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp về BHXH. Trong đó bổ sung một số nội dung quan trọng:
 
- Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội có trách nhiệm trình Chính phủ quyết định biện pháp xử lý trong trường hợp cần thiết để bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng về BHXH của người lao động;
 
- Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm xây dựng chỉ tiêu phát triển đối tượng tham gia BHXH trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hằng năm trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định.
 
4. Về thanh tra BHXH: (Điều 13)
 
- Bổ sung quy định thanh tra tài chính thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về quản lý tài chính BHXH để đảm bảo việc quản lý, sử dụng quỹ BHXH một cách hiệu quả, đúng quy định;
 
- Giao chức năng thanh tra chuyên ngành về đóng BHXH, BHYT, BHTN cho cơ quan BHXH. Quy định này nhằm bổ sung lực lượng thanh tra để từng bước khắc phục tình trạng trốn đóng, nợ đọng BHXH của các đơn vị (hiện nay, số lượng thanh tra lao động rất mỏng, cả nước chỉ có khoảng 500 thanh tra viên, trong khi phạm vi thanh tra rất rộng nên việc thanh tra tình hình thực hiện BHXH không được thường xuyên, liên tục dẫn đến việc tuân thủ pháp luật về BHXH không nghiêm, tình trạng trốn đóng, nợ đọng BHXH, BHYT, BHTN còn xảy ra phổ biến với diễn biến phức tạp).
 
5. Về quyền và trách nhiệm của các tổ chức chính trị - xã hội:(Điều 14)
 
- Đối với tổ chức công đoàn: Bổ sung quyền khởi kiện đối với các hành vi vi phạm pháp luật về BHXH gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động; quyền tham gia thanh tra việc thi hành pháp luật về BHXH;
 
- Bổ sung quy định về quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong tuyên truyền, vận động, giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về BHXH.
 
6. Về các hành vi bị nghiêm cấm: Điều 17 quy định chi tiết hơn về các hành vi bị nghiêm cấm trong đó bổ sung:
 
- Trốn đóng BHXH bắt buộc, BHTN.
 
- Chậm đóng tiền BHXH, BHTN.
 
- Chiếm dụng tiền đóng, hưởng BHXH, BHTN.
 
- Truy cập, khai thác trái pháp luật cơ sở dữ liệu về BHXH, BHTN.
 
III. Về quyền, nghĩa vụ của người lao động, người sử dụng lao động, cơ quan BHXH
 
1. Về quyền của người lao động (Điều 18): Luật BHXH 2014 bổ sung các quyền:
 
- Được nhận lương hưu, trợ cấp BHXH theo các phương thức chi trả trực tiếp tại cơ quan BHXH hoặc thông qua tổ chức dịch vụ hoặc qua tài khoản tiền gửi hoặc thông qua người sử dụng lao động (hiện nay, cơ quan BHXH cũng đang thực hiện các phương thức chi trả này);
 
- Được hưởng BHYT trong thời gian nghỉ việc hưởng trợ cấp thai sản khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi và nghỉ việc hưởng trợ cấp ốm đau trong trường hợp mắc bệnh thuộc danh mục cần chữa trị dài ngày;
 
- Người lao động bảo lưu thời gian đóng BHXH, người bị tái phát thương tật, bệnh tật do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và thân nhân người lao động được chủ động đi giám định mức suy giảm khả năng lao động để làm căn cứ hưởng chế độ BHXH và được quỹ BHXH thanh toán phí giám định y khoa trong trường hợp đủ điều kiện hưởng chế độ BHXH. Với quy định này, người lao động và thân nhân người lao động được khám giám định mà không phải thông qua việc giới thiệu của cơ quan BHXH và không phải trả phí khám giám định như quy định hiện nay;
 
- Được người sử dụng lao động định kỳ 6 tháng cung cấp thông tin về việc đóng BHXH, hàng năm được cơ quan BHXH xác nhận thời gian đóng BHXH; được quản lý sổ BHXH của mình. Quy định này nhằm tạo cơ chế để người lao động theo dõi và giám sát quá trình đóng BHXH của người sử dụng lao động đối với mình (quy định hiện hành giao cho người sử dụng lao động quản lý sổ BHXH).
 
2. Về trách nhiệm của người sử dụng lao động: (Điều 21)
 
- Bổ sung quy định người sử dụng lao động định kỳ 06 tháng niêm yết công khai thông tin về việc đóng BHXH cho người lao động; bỏ quy định người sử dụng lao động quản lý sổ BHXH khi người lao đông đang làm việc để phù hợp với quy định giao sổ BHXH cho người lao động quản lý;
 
 - Bổ sung trách nhiệm giới thiệu người bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp nhiều lần ra Hội đồng giám định y khoa để giám định tổng hợp mức suy giảm khả năng lao động (quy định hiện nay là cơ quan BHXH giới thiệu nên thời gian từ khi người lao động bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp điều trị xong đến khi được khám giám định kéo dài hơn).
 
3. Về quyền của cơ quan BHXH: (Điều 22)
 
Ngoài việc được giao chức năng thanh tra chuyên ngành về đóng BHXH, BHYT, BHTN, cơ quan BHXH còn được bổ sung một số quyền sau:
 
- Được yêu cầu người sử dụng lao động xuất trình sổ quản lý lao động, bảng lương và thông tin, tài liệu khác liên quan đến việc đóng, hưởng BHXH, BHTN, BHYT;
 
- Được cơ quan đăng ký doanh nghiệp, cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận hoạt động hoặc giấy phép hoạt động gửi bản sao giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; giấy phép hoạt động; giấy chứng nhận hoạt động hoặc quyết định thành lập;
 
- Định kỳ sáu tháng được cơ quan quản lý nhà nước về lao động ở địa phương cung cấp thông tin về tình hình sử dụng và thay đổi lao động trên địa bàn;
 
- Được cơ quan thuế cung cấp mã số thuế của tổ chức, cá nhân; định kỳ hằng năm cung cấp thông tin về chi phí tiền lương để tính thuế của doanh nghiệp hoặc tổ chức.
 
4. Về trách nhiệm của cơ quan BHXH: (Điều 23)
 
- Bổ sung trách nhiệm:
 
+ Hàng năm, xác nhận thời gian đóng BHXH cho từng người lao động; cung cấp đầy đủ và kịp thời thông tin về việc đóng, quyền đư­ợc hưởng chế độ; hàng năm, cung cấp thông tin về việc đóng BHXH của người lao động để  người sử dụng lao động niêm yết công khai;
 
+ Hàng năm, cơ quan BHXH tại địa phương báo cáo Ủy ban nhân dân cùng cấp về tình hình thực hiện BHXH, BHYT, BHTN;
 
+ Công khai trên phương tiện truyền thông về người sử dụng lao động vi phạm nghĩa vụ đóng BHXH, BHYT, BHTN;
 
+ Quyết định chấm dứt hưởng BHXH trong trường hợp có căn cứ xác định việc hưởng BHXH không đúng quy định;
 
+ Đến năm 2020, hoàn thành việc xây dựng và vận hành cơ sở dữ liệu điện tử về quản lý BHXH trong phạm vi cả nước (Khoản 2 Điều 9);
 
+ Đến năm 2020, phải thay thế sổ BHXH bằng thẻ BHXH (Khoản 2 Điều 96).
 
- Bỏ trách nhiệm giới thiệu người lao động, thân nhân người lao động ra Hội đồng Giám định y khoa để phù hợp với quy định quyền được chủ động đi khám giám định mức suy giảm khả năng lao động của người lao động.
 
IV. Về chế độ BHXH bắt buộc: Chương này gồm 48 Điều (từ Điều 24 đến Điều 71)
 
1. Về chế độ ốm đau (từ Điều 24 đến Điều 29)
 
- Đối với bệnh cần chữa trị dài ngày (Khoản 2 Điều 26), không quy định thời gian hưởng lặp lại hàng năm như hiện nay mà quy định tối đa hưởng một trăm tám mươi ngày, sau đó nếu vẫn tiếp tục điều trị thì được hưởng tiếp chế độ ốm đau với mức thấp hơn và quy định thời gian hưởng tối đa bằng thời gian đã đóng BHXH. Quy định này nhằm đảm bảo nguyên tắc mức hưởng được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng BHXH và có chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia, đồng thời tránh được tình trạng lạm dụng quỹ BHXH (quy định hiện nay cho phép người bị mắc bệnh cần chữa trị dài ngày rồi mới đi làm và chỉ cần tham gia đóng BHXH một tháng là được hưởng trợ cấp ốm đau với thời gian không xác định);
 
- Về mức hưởng trợ cấp ốm đau cho một ngày (Khoản 4 Điều 28): Sửa đổi theo hướng nâng mức hưởng trợ cấp ốm đau một ngày bằng mức trợ cấp ốm đau theo tháng chia cho 24 ngày (hiện nay chia cho 26 ngày); đối với trường hợp bị mắc bệnh cần chữa trị dài ngày đã hưởng hết thời gian 180 ngày, có thời gian đóng BHXH dưới 15 năm mà phải nghỉ việc điều trị tiếp thì mức hưởng theo tháng được nâng từ 45% lên bằng 50% mức tiền lương đóng BHXH của tháng liền kề trước khi nghỉ việc (điểm c Khoản 2 Điều 28). Luật lần này cũng bỏ quy định bù bằng mức lương tối thiểu chung đối với các trường hợp nghỉ hưởng trợ cấp ốm đau do mắc bệnh cần chữa trị dài ngày mà thời gian nghỉ quá 180 ngày;
 
 - Đối với mức hưởng dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau ốm đau, thai sản (Điều 29 và 41): Quy định một mức hưởng chung cho một ngày bằng 30% mức lương cơ sở (quy định hiện hành là hai mức: 25% đối với nghỉ tại gia đình và 40% đối với nghỉ tập trung và trong thực tế tổ chức thực hiện không có căn cứ để xác định thế nào là nghỉ tập trung dễ dẫn đến tùy tiện).
 
2. Về chế độ thai sản (từ Điều 30 đến Điều 41)
 
Luật BHXH lần này đã bổ sung nhiều quyền lợi về chế độ thai sản mang tính nhân văn cao, cụ thể:
 
- Để đảm bảo quyền lợi cho những lao động nữ bị thiệt thòi do khi mang thai phải nghỉ việc để dưỡng thai theo chỉ định của cơ sở khám chữa bệnh có thẩm quyền, Luật đã bổ sung quy định (Khoản 3 Điều 31) về điều kiện về thời gian đóng BHXH có từ đủ 12 tháng trở lên thì chỉ cần đảm bảo điều kiện đóng BHXH từ đủ 3 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con (quy định đối với các trường hợp thông thường là có thời gian đóng BHXH từ đủ 6 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con);
 
- Bổ sung quy định (Khoản 2 Điều 34) lao động nam có vợ sinh con được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản 5 ngày làm việc đối với trường hợp sinh thường và 7 ngày làm việc đối với trường hợp sinh con phải phẫu thuật, sinh con dưới 32 tuần tuổi; 10 ngày nếu sinh đôi và thêm 3 ngày/01con nếu sinh 3 trở lên; 14 ngày nếu sinh 2 trở lên mà phải phẫu thuật. Mục đích của việc bổ sung quy định này nhằm đảm bảo nguyên tắc bình đẳng giới, nguyên tắc đóng - hưởng (vì người sử dụng lao động vẫn phải đóng BHXH vào quỹ ốm đau, thai sản cho lao động nam). Mặt khác, trong thực tế khi người vợ sinh con, người cha vẫn phải nghỉ việc một số ngày để chăm sóc vợ và con nhỏ;
 
- Quy định lại thời gian nghỉ trước và sau khi sinh con đối với lao động nữ là 6 tháng và thời gian nghỉ trước khi sinh tối đa 2 tháng (Khoản 1 Điều 34). Do Bộ luật Lao động năm 2012 sửa nâng thời gian hưởng chế độ từ 4 tháng lên 6 tháng và đã thực hiện từ tháng 5/2013, nay cần sửa lại trong Luật này để cho phù hợp;
 
- Sửa đổi quy định trong trường hợp chỉ có mẹ tham gia BHXH hoặc cả cha và mẹ đều tham gia BHXH mà mẹ chết sau khi sinh con thì cha hoặc người trực tiếp nuôi dưỡng được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản đối với thời gian còn lại của người mẹ (kể cả trường hợp người cha hoặc người trực tiếp nuôi dưỡng không nghỉ việc); nếu người mẹ tham gia BHXH nhưng không đủ điều kiện về thời gian đóng BHXH (đủ 6 tháng trong vòng 12 tháng hoặc đủ 3 tháng trong vòng 12 tháng trước khi sinh) mà bị chết sau khi sinh thì người cha vẫn được nghỉ việc hưởng trợ cấp thai sản cho đến khi con đủ 6 tháng tuổi;
 
- Bổ sung quy định trường hợp chỉ có cha tham gia BHXH mà mẹ chết sau khi sinh con hoặc gặp rủi ro sau khi sinh (như bị bệnh về tâm thần hoặc tai biến sau khi sinh...) mà không có đủ sức khỏe để chăm sóc con có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh theo thẩm quyền thì người cha được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản cho đến khi con đủ 6 tháng tuổi (Khoản 6 Điều 34);
 
- Bổ sung trường hợp chỉ có cha tham gia BHXH, khi vợ sinh con thì cha được trợ cấp một lần bằng 02 tháng tiền lương cơ sở cho mỗi con (Điều 38);
 
- Tăng thời gian lao động nữ nghỉ thai sản trong trường hợp con chết sau khi sinh thêm 01 tháng (Khoản 3 Điều 34);
 
- Bổ sung quy định chế độ thai sản đối với lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ (Điều 35) để cụ thể hóa quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Theo đó, lao động nữ mang thai hộ được hưởng chế độ khi khám thai, sảy thai, nạo hút thai thai chết lưu hoặc phá thai bệnh lý và chế độ khi sinh con cho đến khi giao đứa trẻ cho người mẹ nhờ mang thai hộ; trong trường hợp kể từ ngày sinh đến thời điểm giao đứa trẻ mà thời gian hưởng chế độ thai sản chưa đủ 60 ngày thì vẫn được hưởng cho đến khi đủ 60 ngày. Người mẹ nhờ mang thai hộ được hưởng chế độ thai sản từ thời điểm nhận con cho đến khi con đủ sáu tháng tuổi. Mức hưởng chế độ thai sản đối với các trường hợp này ngang bằng với các trường hợp mang thai và sinh con thông thường;
 
- Quy định người lao động khi nhận nuôi con nuôi được hưởng chế độ thai sản cho đến khi con đủ 6 tháng tuổi (quy định tại Khoản 1 Điều 157 Bộ luật Lao động 2012 đã sửa thời gian hưởng trợ cấp thai sản khi sinh con đối với lao động nữ là 6 tháng, nhưng giữ nguyên thời gian hưởng chế độ thai sản khi nhận nuôi con nuôi đến khi con đủ 4 tháng tuổi. Vì vậy, cần thiết phải nâng thời gian hưởng chế độ khi nhân nuôi con nuôi cho đến khi con đủ 6 tháng tuổi để đảm bảo tính tương đồng - Điều 36);
 
- Bỏ quy định phải có xác nhận của cơ sở y tế về việc đi làm sớm không có hại cho sức khoẻ của người lao động đối với trường hợp lao động nữ đi làm trước khi hết thời hạn nghỉ sinh con. Vì quy định này làm phát sinh thủ tục hành chính gây khó khăn cho lao động nữ khi thực hiện quyền của mình.
 
3. Chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
 
Luật BHXH lần này không sửa đổi, bổ sung các quy định về chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp vì nội dung này đã được thiết kế để đưa vào Luật An toàn, vệ sinh lao động (dự kiến được Quốc hội thông qua trong kỳ họp vào tháng 5/2015).
 
4. Chế độ hưu trí (từ Điều 53 đến Điều 65)
 
Có thể nói việc sửa đổi, bổ sung chế độ hưu trí lần này có nhiều luồng quan điểm khác nhau nhất. Chế độ hưu trí của chúng ta từ trước đến nay còn mang nặng tính bao cấp, không đảm bảo nguyên tắc đóng - hưởng, chúng ta được hưởng nhiều hơn mức đóng góp và đã thành nếp nghĩ như vậy. Một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến cân đối quỹ hưu trí, tử tuất là số người nghỉ hưu sớm do suy giảm khả năng lao động chiếm tỷ trọng lớn đã kéo tuổi nghỉ hưu bình quân xuống thấp. Theo số liệu thống kê có được (không bao gồm lực lượng vũ trang), tuổi nghỉ hưu bình quân hiện nay là khoảng 54 tuổi (trong đó nam 55,3 tuổi, nữ 52,8 tuổi), trong khi tuổi thọ bình quân hiện nay là khoảng 73 tuổi. Điều này làm cho thời gian đóng BHXH ngắn (thời gian đóng BHXH bình quân xấp xỉ 31,3 năm) và thời gian hưởng lương hưu dài (thời gian hưởng bình quân 19 năm); tỷ lệ % hưởng lương hưu bình quân là 70% trong khi tỷ lệ đóng góp vào quỹ hưu trí, tử tuất theo quy định là 22% (chỉ xét riêng về mức độ chênh lệch giữa tỷ lệ đóng và hưởng thì một năm hưởng bằng hơn 3 năm đóng BHXH).
 
Như vậy, có thể thấy nếu tiếp tục duy trì quan hệ đóng - hưởng như hiện nay thì trong tương lai không xa, quỹ này sẽ gặp khó khăn về cân đối, ảnh hưởng nặng nề đến các thế hệ tiếp theo. Vì vậy, một trong các ưu tiên của lần sửa đổi này cần tính đến quan hệ đóng hưởng để cải thiện một bước tình hình tài chính quỹ hưu trí, tử tuất nhưng phải có lộ trình điều chỉnh quan hệ đóng hưởng để  không tác động mạnh đến đời sống người nghỉ hưu. Cụ thể như:
 
- Sửa đổi điều kiện về tuổi đời hưởng lương hưu đối với người bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên theo hướng: tăng dần mỗi năm 1 tuổi từ 01/01/2016 đến khi nam đủ 55 tuổi, nữ đủ 50 tuổi trở lên (hiện nay là 50 và 45); đối với người bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên thì tuổi nghỉ hưu là nam đủ 50 tuổi, nữ đủ 45 tuổi;
 
- Về tỷ lệ % hưởng lương hưu:
 
+ Sửa đổi cách tính tỷ lệ hưởng lương hưu theo lộ trình tăng dần số năm đóng BHXH đối với lao động nam để được hưởng 45% mức bình quân tiền lương tháng như sau: Nghỉ hưu từ năm 2018 trở đi mỗi năm tăng thêm 01 năm cho đến khi 20 năm đóng BHXH tương ứng với 45% (năm 2018 là 16 năm; năm 2019 là 17 năm; năm 2020 là 18 năm; năm 2021 là 19 năm và từ năm 2022 trở đi là 20 năm). Đối với lao động nữ, từ năm 2018 trở đi thì 15 năm đóng BHXH tương ứng với 45% và sau đó cả nam và nữ đều tính thêm 2% cho mỗi năm, mức lương hưu tối đa bằng 75%. Như vậy, để đạt được mức hưởng tối đa là 75% thì nam phải đóng BHXH 35 năm và nữ 30 năm;
 
+ Tăng tỷ lệ giảm trừ do nghỉ hưu trước tuổi từ 1% lên 2% cho mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi để hạn chế tình trạng nghỉ hưu trước tuổi; trường hợp tuổi nghỉ hưu có tháng lẻ đến đủ 06 tháng thì mức giảm là 1%, từ trên 06 tháng thì không giảm tỷ lệ phần trăm do nghỉ hưu trước tuổi.
 
Vì thực tế cho thấy công tác khám giám định mức suy giảm khả năng lao động hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu, hầu hết những người có nhu cầu giám định để nghỉ hưu đều đạt mức giảm khả năng lao động từ 61% trở lên (đủ điều kiện về sức khỏe để nghỉ hưu). Đa số những người nghỉ hưu trước tuổi sau đó đều trở lại làm việc trong khu vực phi chính thức do còn đủ sức khỏe để làm việc.
 
- Về mức bình quân tiền lương làm căn cứ tính lương hưu đối với người thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định, Luật quy định lộ trình áp dụng cách tính lương bình quân theo nhiều bước để tiến tới thực hiện tính bình quân chung của cả quá trình đóng BHXH, đảm bảo bình đẳng giữa khu vực trong và ngoài nhà nước. Cụ thể như sau:
 
          + Đối với người tham gia BHXH trước 01/01/1995: tính bình quân 5 năm cuối;
 
          + Đối với người tham gia BHXH từ 01/01/1995 đến 31/12/2000: tính bình quân 6 năm cuối;
 
          + Đối với người tham gia BHXH từ 01/01/2001 đến 31/12/2006: tính bình quân 8 năm;
 
          + Đối với người tham gia BHXH từ 01/01/2007 đến 31/12/2015: tính bình quân 10 năm;
 
          + Đối với người tham gia BHXH từ 01/01/2016 đến 31/12/2019: tính bình quân 15 năm;
 
          + Đối với người tham gia BHXH từ 01/01/2020 đến 31/12/2024: tính bình quân 20 năm;
 
          + Đối với người tham gia BHXH từ ngày 01/01/2025 trở đi: tính bình quân cả quá trình tham gia.
 
- Mở rộng điều kiện hưởng lương hưu đối với lao động nữ hoạt động chuyên trách hoặc không chuyên trách ở cấp xã chỉ cần có đủ 15 năm đóng BHXH và đủ 55 tuổi. Tuy nhiên, đối tượng này không được bổ sung lương hưu theo mức lương cơ sở nếu mức lương hưu thấp hơn mức lương cơ sở;
 
- Bổ sung quy định cụ thể về thời điểm hưởng lương hưu:
 
+ Đối với người đang đóng BHXH bắt buộc, thời điểm hưởng lương hưu là thời điểm ghi trong quyết định nghỉ việc do người sử dụng lao động lập khi người lao động đã đủ điều kiện hưởng lương hưu theo quy định.
 
+ Đối với người đang bảo lưu thời gian đóng BHXH, thời điểm hưởng lương hưu được tính bắt đầu từ tháng liền kề sau tháng người lao động đủ điều kiện hưởng lương hưu theo quy định.
 
- Về BHXH một lần:
 
Ngoài việc tăng mức trợ cấp BHXH một lần từ 1,5 tháng lên 02 tháng mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH mỗi năm đóng BHXH từ năm 2014 trở đi (tương ứng mức đóng BHXH là 22% cho quỹ  hưu trí, tử tuất), Luật BHXH 2014 đã sửa đổi điều kiện hưởng BHXH một lần theo hướng hạn chế tối đa việc hưởng BHXH một lần, trừ một số trường hợp đặc biệt như: đã hết tuổi lao động mà không đủ điều kiện hưởng lương hưu hoặc ra nước ngoài để định cư hợp pháp hoặc mắc các bệnh hiểm nghèo.
 
Có thể nói, việc giới hạn điều kiện hưởng BHXH một lần chỉ nhằm mục đích duy nhất là đảm bảo an sinh xã hội lâu dài cho người dân theo quy định của Hiến pháp. Tuy nhiên, như chúng ta đã biết, vừa qua một số lao động của Công ty PouYuen đã phản đối và kiến nghị giữ nguyên quy định này của Luật BHXH năm 2006. Vì vậy, từ góc độ cơ quan tổ chức thực hiện chính sách, chúng tôi xin trao đổi thêm:
 
Qua quá trình tổ chức thực hiện cho thấy, số người hưởng BHXH một lần hàng năm là rất lớn, năm sau cao hơn năm trước (năm 2007: 129.156 người; năm 2008: 288.309 người; năm 2009: 425.903 người; năm 2010: 488.122 người; năm 2011: 478.462 người; năm 2012: 601.020 người; năm 2013: 635.657 người; năm 2014: 605.783 người). Điều này đồng nghĩa với việc những người đã hưởng BHXH một lần sẽ có rất ít cơ hội để nhận được lương hưu khi tuổi già. Khi đó họ sẽ trở thành gánh nặng cho gia đình và Nhà nước sẽ phải bỏ ra một khoản kinh phí lớn để trợ cấp xã hội và đây là một nghịch lý: Khi còn khả năng lao động thì tiêu phí những khoản đã được tích lũy để đến khi tuổi già (không còn khả năng lao động) thì đời sống gặp khó khăn do không có lương hưu và BHYT.
 
Một khía cạnh khác cần đề cập ở đây là: Trong số 22% tổng quỹ tiền lương đóng vào quỹ hưu trí, tử tuất thì người lao động chỉ đóng 8%, còn lại 14% là do người sử dụng lao động đóng góp. Sự đóng góp của người sử dụng lao động là trách nhiệm về đảm bảo an sinh xã hội của họ đối với người lao động và rộng hơn là đối với xã hội. Vậy tại sao người lao động lại không có trách nhiệm với chính mình trong việc tích lũy để dành cho tuổi già.
 
Người lao động khi hưởng BHXH một lần ngoài việc mất đi cơ hội được đảm bảo an sinh xã hội lâu dài còn phải chịu thiệt thòi do mức hưởng theo quy định thấp hơn mức đóng góp (bao gồm cả đóng góp của người sử dụng lao động).
 
Đối với người lao động đã có thời gian đóng BHXH, còn đủ khả năng lao động thì việc không hưởng BHXH một lần để bảo lưu thời gian đóng BHXH mang lại những lợi ích sau:
 
Thứ nhất, người bảo lưu thời gian đóng BHXH hoàn toàn có thể tiếp tục tham gia BHXH theo 2 hình thức là BHXH bắt buộc nếu tham gia vào quan hệ lao động hoặc BHXH tự nguyện (được Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí đóng BHXH) cho đến khi đủ điều kiện để hưởng lương hưu (bao gồm cả BHYT), đời sống được đảm bảo ở mức độ nhất định lúc tuổi già, giảm mức độ phụ thuộc vào gia đình và xã hội.
 
Thứ hai, trường hợp người lao động đã hết tuổi lao động nhưng chưa đủ điều kiện về thời gian đóng BHXH để hưởng lương hưu hoặc ra nước ngoài để định cư hoặc lâm trọng bệnh thì Luật BHXH vẫn cho phép được hưởng BHXH một lần theo thời gian và số tiền đóng BHXH (số tiền này được bảo toàn về giá trị do khi giải quyết được tính theo mức tăng của chỉ số giá cả). Trường hợp, trong thời gian bảo lưu không may bị chết thì ngoài khoản trợ cấp tử tuất (nếu là trợ cấp tử tuất một lần thì mức hưởng được tính như đối với BHXH một lần và thân nhân đủ điều kiện hưởng trợ cấp tuất hàng tháng có quyền lựa chọn hưởng trợ cấp tuất một lần), thân nhân người lao động còn được hưởng trợ cấp mai táng bằng 10 tháng lương cơ sở (mức lương cơ sở hiện nay là 1.150.000 đồng).
 
Thứ ba, về mặt xã hội nếu hưởng BHXH một lần thì khả năng khi tuổi già không đủ điều kiện về thời gian đóng BHXH để hưởng lương hưu là rất lớn. Lúc này Nhà nước phải bỏ ra một khoản kinh phí lớn để chi trợ cấp xã hội và mua BHYT đối với người cao tuổi không có thu nhập (quy định hiện nay là từ 80 tuổi trở lên). Trường hợp nếu đã hưởng BHXH một lần mà tiếp tục tham gia BHXH đủ điều kiện hưởng lương hưu thì lương hưu cũng sẽ rất thấp do thời gian đóng BHXH chỉ đạt điều kiện tối thiểu và với mức lương này đời sống cũng sẽ gặp khó khăn.
 
Bên cạnh đó, để đảm bảo đời sống của người lao động khi bị mất việc làm, ngoài việc được hưởng trợ cấp thất nghiệp và BHYT theo chính sách BHTN với thời gian từ 3 đến 12 tháng tùy theo thời gian đóng BHTN và thời gian mất việc làm, người lao động còn được đào tạo lại nghề để trở lại thị trường lao động tiếp tục làm việc và tham gia đóng BHXH. Ngoài ra, những người lao động thực sự gặp khó khăn còn có thể tiếp cận với một số chính sách tín dụng ưu đãi khác của Nhà nước để đầu tư sản xuất, kinh doanh và có cơ hội để tiếp tục tham gia BHXH theo loại hình bắt buộc hoặc tự nguyện
 
- Về điều chỉnh tiền lương đã đóng BHXH: Sửa đổi với người tham gia BHXH từ trước ngày luật này có hiệu lực thi hành thì việc điều chỉnh tiền lương đã đóng BHXH vẫn thực hiện như quy định hiện hành. Đối với người bắt đầu tham gia BHXH từ ngày luật này có hiệu lực thi hành thì tiền lương đã đóng BHXH được điều chỉnh trên cơ sở chỉ số giá sinh hoạt của từng thời kỳ áp dụng cho mọi người lao động, không phân biệt khu vực nhà nước hay ngoài nhà nước;
 
- Về tạm dừng hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng: Bỏ quy định người đang chấp hành hình phạt tù giam bị tạm dừng hưởng lương hưu (trong thời gian bị tù giam vẫn được hưởng lương hưu và BHYT); bổ sung quy định về việc tiếp tục chi trả lương hưu khi người xuất cảnh trái phép trở về định cư hợp pháp; đồng thời quy định việc truy lĩnh lương hưu, trợ cấp trong trường hợp người bị Tòa án tuyên bố là mất tích được Tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố mất tích;
 
- Bổ sung quy định về giải quyết trợ cấp một lần đối với người đang hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH hằng tháng ra nước ngoài để định cư.
 
Tựu chung lại, các nội dung sửa đổi lần này về chế độ hưu trí đều hướng đến việc đảm bảo nguyên tắc đóng - hưởng, đảm bảo công bằng xã hội, bình đẳng giới và cải thiện một bước tình hình tài chính quỹ hưu trí, tử tuất, đảm bảo an sinh xã hội lâu dài cho người dân.
 
5. Chế độ tử tuất (từ Điều 66 đến Điều 71)
 
- Bổ sung điều kiện phải có đủ 12 tháng đóng BHXH bắt buộc trở lên đối với người đang tham gia hoặc bảo lưu thời gian đóng BHXH mới được hưởng trợ cấp mai táng (trừ trường hợp chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp). Mục đích của việc sửa đổi này nhằm đảm bảo nguyên tắc đóng - hưởng và tránh lạm dụng chính sách;
 
- Bổ sung quy định cho phép thân nhân người lao động đủ điều kiện hưởng trợ cấp tuất hàng tháng được lựa chọn hưởng trợ cấp tuất một lần, trừ trường hợp có thân nhân là con dưới 6 tuổi, con hoặc vợ hoặc chồng mà bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên. Việc bổ sung quy định này nhằm khắc phục một số bất cập của Luật hiện hành do trong thực tiễn có nhiều trường hợp thời gian hưởng trợ cấp tuất hàng tháng rất ngắn (con sắp hết tuổi hưởng, cha mẹ quá già) nên số tiền được hưởng rất thấp, trong khi nếu hưởng trợ cấp tuất một lần thì số tiền trợ cấp rất lớn lên đến hàng trăm triệu đồng nên rất thiệt thòi;
 
- Bỏ quy định ràng buộc điều kiện hưởng trợ cấp tuất hàng tháng “còn đang đi học” đối với thân nhân là con từ đủ 15 tuổi đến đủ 18 tuổi để đảm bảo tính nhân văn của chính sách;
 
- Bổ sung quy định trường hợp người lao động không có thân nhân quy định của Luật BHXH thì trợ cấp tuất một lần được thực hiện theo quy định của pháp luật về thừa kế;
 
- Tăng mức trợ cấp tuất một lần đối với trường hợp người lao động đang đóng hoặc đang bảo lưu thời gian đóng BHXH nếu chết thì mức trợ cấp tuất một lần là 2 tháng mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH cho mỗi năm đóng BHXH từ năm 2014 trở đi (mức của Luật năm 2007 là 1,5 tháng)
 
- Bổ sung một điều quy định cụ thể về liên thông chính sách BHXH tự nguyện với chính sách BHXH bắt buộc.
 
V. Về chế độ BHXH tự nguyện: Chương này gồm 10 Điều (từ Điều 72 đến Điều 81)
 
Nội dung sửa đổi ở Chương này nhằm thống nhất chế độ chính sách giữa BHXH bắt buộc với BHXH tự nguyện về chế độ hưu trí, tử tuất như: Công thức tính lương hưu; thời điểm hưởng lương hưu; BHXH một lần; chế độ tử tuất...
 
VI. Quỹ BHXH: Chương này gồm 11 Điều (từ Điều 82 đến Điều 92), những sửa đổi tập trung vào những vấn đề:
 
1. Quỹ BHXH tự nguyện được nhập vào quỹ hưu trí và tử tuất. Vì quỹ BHXH tự nguyện cũng chỉ gồm quỹ hưu trí, tử tuất. Khi quy định liên thông giữa chính sách BHXH bắt buộc và tự nguyện thì người lao động có các thời gian tham gia đan xen giữa hai loại hình này nên không thể hạch toán các quỹ một cách độc lập.
 
Bỏ quy định để lại 2% tổng quỹ tiền lương đóng BHXH vào quỹ ốm đau và thai sản tại đơn vị để chi trả trợ cấp ốm đau, thai sản cho phù hợp với việc giao cơ quan BHXH giải quyết và chi trả chế độ này.
 
2. Bổ sung các nội dung chi của quỹ:
 
- Đóng BHYT cho người nghỉ việc hưởng trợ cấp thai sản khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi và người nghỉ việc hưởng trợ cấp ốm đau trong trường hợp bị mắc bệnh thuộc danh mục bệnh cần chữa trị dài ngày;
- Trả phí giám định y khoa đối với trường hợp không do người sử dụng lao động giới thiệu đi giám định mức suy giảm khả năng lao động mà kết quả giám định đủ điều kiện hưởng chế độ BHXH.
 
3. Bổ sung phương thức đóng của người lao động tham gia BHXH tự nguyện gồm một năm một lần, đóng một lần cho nhiều năm về sau theo hướng thấp hơn mức đóng hằng tháng hoặc đóng một lần cho những năm còn thiếu theo hướng cao hơn (quy định hiện nay là đóng theo tháng, theo quý hoặc 6 tháng một lần nên người tham gia phải thường xuyên giao dịch với cơ quan BHXH).
 
4. Luật hóa quy định về việc thực hiện đóng bù cho thời gian được tạm dừng đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất sau khi hết thời hạn tạm dừng đóng trong trường hợp người sử dụng lao động gặp khó khăn phải tạm dừng sản xuất, kinh doanh dẫn đến việc người lao động và người sử dụng lao động không có khả năng đóng BHXH;
 
Bổ sung quy định tạm dừng đóng và đóng bù BHXH cho thời gian tạm dừng đóng trong trường hợp người lao động bị tạm giam nhưng được xác định là oan sai.
 
5. Về tiền lương tháng đóng BHXH bắt buộc: Quy định tiền lương tháng đóng BHXH bắt buộc đối với người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định được thiết kế theo hướng từ khi luật này có hiệu lực thi hành đến hết năm 2017 tiền lương tháng đóng BHXH bắt buộc là mức lương và phụ cấp lương ghi trên hợp đồng lao động theo pháp luật lao động. Từ 01/01/2018 trở đi tiền lương tháng đóng BHXH bắt buộc là mức lương, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác theo quy định của pháp luật lao động.
 
Với quy định này, mức lương đóng BHXH của người lao động trong khu vực doanh nghiệp sẽ sát hơn với thu nhập thực tế nên sẽ cao hơn và mức hưởng nhờ đó cũng cao hơn (theo quy định hiện hành, tiền lương tháng đóng BHXH bắt buộc là mức lương và phụ cấp lương ghi trên hợp đồng lao động và trong thực tế tiền lương này trong nhiều trường hợp chỉ bằng khoảng 60% thu nhập của người lao động do các doanh nghiệp thường tách ra các khoản như: tiền chuyên cần, tiền đi lại, tiền dọn dẹp... để không phải đóng BHXH ở mức cao để thu thêm lợi nhuận).
 
VII. Trình tự, thủ tục thực hiện BHXH: Chương này gồm 22 Điều (từ Điều 96 đến Điều 117)
 
Trên cơ sở pháp điển hóa các quy định về thủ tục, hồ sơ từ các văn bản hướng dẫn thi hành luật, được sự đồng thuận từ phía người lao động, người sử dụng lao động và tiếp thu các phương án đơn giản hóa thủ tục hành chính của Chính phủ liên quan đến thủ tục thực hiện, Luật BHXH 2014 đã quy định cụ thể hơn, đầy đủ hơn về hồ sơ và quy trình thực hiện, giảm thời gian thực hiện thủ tục. Tuy nhiên, có 2 khác biệt căn bản trong quy định của Luật này là:
 
- Thay đổi quy trình giải quyết chế độ ốm đau, thai sản theo hướng cơ quan BHXH tiếp nhận hồ sơ từ người sử dụng lao động, giải quyết và tổ chức chi trả cho người lao động trong các hình thức: Chi trả trực tiếp tại cơ quan BHXH; thông qua tổ chức dịch vụ được cơ quan BHXH ủy quyền; thông qua tài khoản tiền gửi cá nhân tại ngân hàng thương mại hoặc thông qua đơn vị sử dụng lao động (quy định hiện nay là người sử dụng để lại 2% trên tổng quỹ tiền lương đóng BHXH để giải quyết và chi trả kịp thời chế độ ốm đau, thai sản cho người lao động tại đơn vị, sau đó quyết toán với cơ quan BHXH. Vì vậy, làm phát sinh một khối lượng lớn công việc cho người sử dụng lao động; mặt khác, trong thực tế các đơn vị cũng không chi trả ngay cho người lao động mà đều chờ sau khi cơ quan BHXH quyết toán thì mới chi trả nên mục đích giải quyết kịp thời quyền lợi người lao động cũng không đạt được);
 
- Bổ sung trách nhiệm bồi thường theo quy định của pháp luật trong trường hợp nộp hồ sơ và giải quyết hưởng chế độ BHXH chậm so với thời hạn quy định, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người hưởng. Trách nhiệm này thuộc về người sử dụng lao động trong trường hợp nộp chậm hồ sơ đề nghị hưởng BHXH và trách nhiệm của cơ quan BHXH trong trường hợp giải quyết hưởng BHXH quá thời hạn.
 
VIII. Khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm về BHXH:
 
Chương này gồm 5 điều (từ Điều 123 đến Điều 125), những sửa đổi tập trung vào những vấn đề:
 
1. Sửa đổi quy định về mức phạt tiền lãi đối với số tiền chưa đóng, chậm đóng bằng 02 lần mức lãi suất đầu tư quỹ BHXH bình quân của năm trước liền kề tính trên số tiền, thời gian chậm đóng BHXH (hiện nay bằng lãi đầu tư của quỹ BHXH). Quy định này sẽ hạn chế được tình trạng trốn đóng BHXH do mức lãi tương đối cao, đồng thời hạn chế được việc chậm đóng BHXH do người sử dụng lao động chiếm dụng tiền đóng BHXH để sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh thay vì phải đi vay ngân hàng với lãi xuất cao hơn và thủ tục phức tạp hơn.
 
2.Bổ sung thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, mức phạt và áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả của cơ quan BHXH, theo đó:
 
Tổng giám đốc BHXH Việt Nam, Giám đốc cơ quan BHXH cấp tỉnh và Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành do Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam quyết định thành lập có thẩm quyền xử phạt, áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả như sau:
 
- Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam có thẩm quyền theo quy định tại khoản 4, Điều 46 của Luật Xử lý vi phạm hành chính (gồm: a) Phạt cảnh cáo; b) Phạt tiền đến mức tối đa đối với lĩnh vực tương ứng quy định tại Điều 24 của Luật này (Luật Xử lý vi phạm hành chính); c) Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn; d) Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính; đ) Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại Điều 28 của Luật này);
 
- Giám đốc BHXH tỉnh có thẩm quyền theo quy định tại Khoản 2, Điều 46 của Luật xử lý vi phạm hành chính (gồm: a) Phạt cảnh cáo; b) Phạt tiền đến 50% mức tiền phạt tối đa đối với lĩnh vực tương ứng quy định tại Điều 24 của Luật này (Luật Xử lý vi phạm hành chính) nhưng không quá 50 triệu đồng; c) Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn; d) Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có giá trị không vượt quá mức tiền phạt được quy định tại điểm b khoản này; đ) Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản Điều 28 của Luật này);
 
- Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành do Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam quyết định thành lập có thẩm quyền theo quy định tại khoản 3, Điều 46 của Luật xử phạt vi phạm hành chính (gồm: a) Phạt cảnh cáo; b) Phạt tiền đến 70% mức tiền phạt tối đa đối với lĩnh vực tương ứng quy định tại Điều 24 của Luật này (Luật Xử lý vi phạm hành chính) nhưng không quá 250 triệu đồng; c) Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn; d) Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có giá trị không vượt quá mức tiền phạt được quy định tại điểm b khoản này; đ) Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản Điều 28 của Luật này).
 
Người có thẩm quyền nêu trên được ủy quyền cho cấp phó thực hiện.
 
- Mức phạt tiền tối đa, các hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả, thủ tục xử phạt và các quy định khác có liên quan về xử phạt vi phạm hành chính thực hiện theo quy định của pháp luật xử lý vi phạm hành chính.
 
IX. Về điều khoản thi hành: Chương này gồm 3 điều (từ Điều 123 đến Điều 125), những sửa đổi tập trung vào những vấn đề:
 
- Quy định chi tiết, cụ thể các nhóm đối tượng thuộc thực hiện chuyển tiếp từ Luật hiện hành sang Luật mới;
 
- Đối với người giao kết hợp đồng lao động với nhiều người sử dụng lao động thì chỉ đóng BHXH đối với hợp đồng lao động giao kết đầu tiên;
 
- Quy định cụ thể Chính phủ, các cơ quan có thẩm quyền chỉ quy định chi tiết những điều, khoản được giao trong Luật.
 
PHẦN II: NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỂ ĐƯA LUẬT BHXH 2014 VÀO CUỘC SỐNG
 
Để có thể thực hiện được mục tiêu tăng nhanh diện bao phủ BHXH và quản lý chặt chẽ người tham gia, giải quyết và chi trả kịp thời đầy đủ các chế độ cho người lao động, đáp ứng được yêu cầu cải cách thủ tục hành chính (TTHC) trong triển khai thực hiện Luật BHXH, Ngành BHXH xác định phải chủ động chuẩn bị các điều kiện cần thiết để triển khai thi hành Luật và thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
 
Một là, chủ động tham gia xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành Luật và nghiên cứu ban hành các văn bản tổ chức thực hiện Luật theo thẩm quyền
 
- Chủ động phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và các bộ, ngành liên quan trong việc xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành Luật BHXH để một mặt vừa đảm bảo đúng tinh thần của Luật, đồng thời cố gắng, hạn chế tối đa các vướng mắc phát sinh trong quá trình tổ chức thực hiện;
 
- Bám sát Chiến lược phát triển ngành BHXH Việt Nam đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện như: Kế hoạch tham gia xây dựng văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật BHXH (sửa đổi), kế hoạch xây dựng ban hành các quy định, quy trình hướng dẫn nghiệp vụ của Ngành; kế hoạch tuyên truyền; kế hoạch thu và phát triển đối tượng; kế hoạch đầu tư phát triển công nghệ thông tin (CNTT); kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, công tác giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức công vụ... Trước mắt, khẩn trương rà soát các quy định, quy trình nghiệp vụ để xây dựng, ban hành mới các quy trình nghiệp vụ cho phù hợp với quy định mới của Luật, những nội dung đã được Luật quy định rõ ràng, cụ thể thì hướng dẫn ngay không chờ Nghị định, thông tư hướng dẫn, chú trọng đến các yêu cầu về cải cách thủ tục hành chính; tổ chức tập huấn, quán triệt nội dung Luật và các quy định về hồ sơ và quy trình nghiệp vụ của Ngành phục vụ cho việc thực hiện Luật, đảm bảo tất cả mọi việc đều phải xong trước ngày 01/01/2016.
 
Hai là, về phát triển đối tượng
 
Có thể nói, không thể phát triển đối tượng tham gia một cách sâu rộng nếu không làm tốt công tác tuyên truyền. Vì vậy, BHXH Việt Nam, BHXH các cấp sẽ phối hợp chặt chẽ với các bộ, ban, ngành ở Trung ương và các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể ở địa phương tập trung chỉ đạo tuyên truyền thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW của Bộ Chính trị, chính sách pháp luật BHXH, BHYT một cách quyết liệt và đồng bộ; đổi mới công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật BHXH, BHYT với nội dung và hình thức đa dạng, phong phú, phù hợp với tính đặc thù về dân trí, dân tộc, tôn giáo và các yếu tố vùng miền của các nhóm dân cư; chú trọng vai trò tuyên truyền miệng và vai trò, ảnh hưởng của các già làng, trưởng bản, chức sắc tôn giáo và những người có uy tín trong cộng đồng dân cư; phát huy hiệu quả tuyên truyền chính sách, pháp luật trên các phương tiện thông tin đại chúng thông qua thực hiện các chuyên trang, chuyên mục, các tin, bài, phóng sự; đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền trên trang tin điện tử của BHXH Việt Nam, Báo BHXH, Tạp chí BHXH;
Đối với công tác phát triển đối tượng: Xác định đây là nhiệm vụ chính trị trọng tâm và lâu dài nên ngay trong kế hoạch của Ngành, chỉ tiêu thu phải được gắn với chỉ tiêu phát triển đối tượng. BHXH Việt Nam đã chỉ đạo BHXH các cấp chủ động xây dựng chương trình, quy chế phối hợp với các sở, ban, ngành ở địa phương để nắm bắt thông tin về số đơn vị đang hoạt động, số đơn vị được thành lập mới hoặc giải thể, phá sản, số lao động cũng như biến động về lao động tại các đơn vị, doanh nghiệp và người lao động trong khu vực phi chính thức trên địa bàn để đôn đốc, vận động tham gia BHXH; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc đóng BHXH đối với các doanh nghiệp; giao chỉ tiêu phát triển đối tượng đến BHXH từng cấp, từng cá nhân chuyên quản; coi việc hoàn thành chỉ tiêu phát triển đối tượng tham gia BHXH, BHYT là chỉ tiêu đánh giá chủ yếu về mức độ hoàn thành nhiệm vụ đối với BHXH các cấp. Kịp thời tham mưu với Ủy ban nhân dân các cấp chỉ đạo các cơ quan chức năng xử lý nghiêm đối với các doanh nghiệp trốn đóng, nợ BHXH kéo dài; đẩy mạnh hoạt động của tổ thu nợ liên ngành và tăng cường công tác khởi kiện đối với các đơn vị chây ỳ không thực hiện nghĩa vụ đóng BHXH.
 
Để chuẩn bị nguồn nhân lực cho việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành về đóng BHXH, năm 2015 BHXH Việt Nam phối hợp với Thanh tra Chính phủ (Trường Cán bộ thanh tra) tiến hành đào tạo nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành cho cán bộ làm công tác kiểm tra và cán bộ làm công tác thu; dự kiến tổ chức 03 lớp đào tạo cho khoảng 500 cán bộ trong toàn Ngành, trong đó cán bộ làm công tác kiểm tra là 350 người, cán bộ làm công tác thu là 150 người.
 
Ba là, về cải cách TTHC
 
Thực hiện Nghị quyết số 49/NQ-CP ngày 09/12/2010 của Chính phủ về việc đơn giản hóa các TTHC, BHXH Việt Nam đã tiến hành rà soát và đơn giản hoá từ 263 TTHC xuống còn 111 TTHC, đồng thời ban hành thêm 04 TTHC để thực hiện một số chính sách mới phát sinh. Hiện nay, tổng số các TTHC của BHXH Việt Nam là 115 thủ tục. Trong năm 2014, thực hiện Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày 18/3/2014 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, BHXH Việt Nam đã tổ chức rà soát lại các thủ tục thuộc thẩm quyền và ban hành Quyết định số 1018/QĐ-BHXH ngày 10/10/2014 để đơn giản hóa một cách sâu rộng hơn các TTHC. Theo đó, một số thành phần hồ sơ và nhiều chỉ tiêu trong các biểu mẫu đã được loại bỏ; doanh nghiệp hoặc cá nhân thay vì phải nộp bản sao chứng thực của một số loại giấy tờ có thể nộp bản chụp (không phải chứng thực) kèm bản chính để cơ quan BHXH đối chiếu và trả lại bản chính; hồ sơ được quy định thống nhất là 01 bộ (kể cả đối với hồ sơ hưởng BHXH hàng tháng); công khai, minh bạch các TTHC để doanh nghiệp và người dân nắm được; cách thức tiếp nhận và trả kết quả giải quyết các thủ tục được thay đổi một cách cơ bản theo hướng cơ quan BHXH trực tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả giải quyết TTHC tại đơn vị hoặc thông qua dịch vụ bưu điện (đơn vị không phải trả phí dịch vụ). Qua đó đã rút ngắn được một bước thời gian, chi phí cho các đơn vị, doanh nghiệp trong thực hiện giao dịch với cơ quan BHXH.
 
Nhằm rút ngắn thời gian giao dịch của các doanh nghiệp, đơn vị với cơ quan BHXH xuống còn 49,5 giờ/năm vào cuối năm 2015 theo chỉ đạo của Chính phủ, BHXH Việt Nam sẽ tiếp tục rà soát 115 thủ tục hành chính (trong đó ưu tiên thực hiện trước 31 thủ tục hành chính liên quan đến lĩnh vực đăng ký tham gia, thu và cấp sổ BHXH, thẻ BHYT) ứng dụng CNTT để cải tiến quy trình nghiệp vụ, giảm bớt thủ tục, hồ sơ, loại bỏ những chỉ tiêu không cần thiết, những chỉ tiêu có sẵn không yêu cầu cá nhân, tổ chức phải kê khai; tiếp tục phối hợp với chuyên gia của Ngân hàng thế giới và các bộ, ngành liên quan tập trung nghiên cứu, đánh giá, đề xuất cải tiến quy trình nghiệp vụ, biểu mẫu và ứng dụng CNTT.
 
Trong năm 2014 và đầu năm 2015 Ngành đã thực hiện thí điểm phần mềm giao dịch điện tử trên mạng Internet. Ngành đang phấn đấu sớm cấp số định danh cho tổ chức và cá nhân tham gia BHXH. Theo đó, mỗi mã số định danh chỉ được cấp cho duy nhất cho một đối tượng tham gia. Giải pháp thực hiện sẽ gồm 04 bước là: rà soát, bổ sung thông tin cấp số định danh ban đầu; cấp mã số định danh theo mô hình tập trung; thu thập thông tin bổ sung; kiểm tra định kỳ.
 
Để chuẩn bị cho việc thực hiện giao dịch điện tử, ngay từ cuối năm 2014, BHXH Việt Nam đã ký hợp đồng chuyển giao phần mềm (iBHXH) hỗ trợ kê khai hồ sơ tham gia BHXH, BHYT qua mạng internet do Công ty cổ phần TS24 cung cấp. Trong tháng 01/2015 đã tổ chức tập huấn cho BHXH 63 tỉnh, thành phố việc tiếp nhận hồ sơ kê khai thủ tục BHXH, BHYT qua mạng bằng phần mềm iBHXH. Đến nay, BHXH các tỉnh, thành đã tổ chức đào tạo cho gần 77.000 đơn vị sử dụng lao động thực hiện kê khai hồ sơ BHXH qua mạng.
 
Ngày 27/3/2015, BHXH Việt Nam đã ban hành Kế hoạch số 993/KH-BHXH tổ chức thực hiện Quyết định số 08/2015/QĐ-TTg ngày 09/3/2015 của Thủ tướng Chính phủ để thực hiện giao dịch điện tử trong lĩnh vực BHXH. Theo đó, từ ngày 01/5/2015, triển khai giao dịch điện tử trong phạm vi toàn quốc đối với thủ tục tham gia BHXH, BHYT, BHTN và đề nghị cấp sổ BHXH, thẻ BHYT; tiếp tục hỗ trợ, đào tạo tập huấn cho các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng phần mềm kê khai tham gia BHXH, BHYT, phấn đấu đến cuối năm 2015 đạt trên 90% doanh nghiệp thực hiện TTHC qua giao dịch điện tử.
 
Với việc thực hiện giao dịch điện tử, cơ quan BHXH sẽ buộc phải chấp nhận tính xác thực của các thông tin mà cá nhân, đơn vị cung cấp và thực hiện công tác hậu kiểm. Trong năm 2014, một cán bộ thu phải quản lý 3.100 đối tượng tham gia BHXH và 17.300 đối tượng tham gia BHYT và với việc phát triển mạnh đối tượng tham gia trong điều kiện không được tăng biên chế trong những năm tiếp theo thì công tác hậu kiểm đối với tất cả các thông tin là rất khó thực hiện và có lẽ sẽ phải chấp nhận một tỷ lệ rủi ro nhất định.
 
Bốn là, về ứng dụng CNTT
 
Xác định việc ứng dụng CNTT vào công tác quản lý là khâu đột phá, gắn liền với công tác cải cách TTHC và có ý nghĩa quyết định đến việc tổ chức thực hiện chính sách BHXH, BHYT, BHXH Việt Nam đã xây dựng kế hoạch đầu tư, phát triển mạnh CNTT. Cụ thể:
 
- Đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 152/QĐ-TTg ngày 28/01/2015 phê duyệt dự toán thực hiện Kế hoạch ứng dụng CNTT trong hoạt động của ngành BHXH giai đoạn 2012 -2015. Trên cơ sở Quyết định của Thủ tướng, tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng CNTT, hệ thống máy chủ, máy trạm, các phần mềm đáp ứng giao dịch điện tử về BHXH, BHYT;
 
- Triển khai phần mềm quản lý tổng thể các hoạt động nghiệp vụ của Ngành tại BHXH 03 tỉnh trong quý II năm 2015, sau đó triển khai tại tất cả các tỉnh. Việc đưa vào sử dụng phần mềm này sẽ đảm bảo hệ thống mạng liên thông từ Trung ương đến cấp huyện, các phần mềm được kết nối thống nhất, tập trung, tính bảo mật cao, thuận lợi trong công tác quản lý, kiểm tra, đối chiếu, tránh trùng lắp;
 
- Hoàn thiện dữ liệu về quá trình tham gia BHXH, BHYT của cá nhân, tổ chức; xây dựng cơ sở dữ liệu tập trung, sẵn sàng cho việc kết nối với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư theo chỉ đạo của Chính phủ để phục vụ có hiệu quả công tác quản lý đối tượng và thực hiện chính sách về BHXH, BHYT
 
- Nâng cấp và phát triển mở rộng hạ tầng CNTT (mạng máy tính, thiết bị CNTT, đường truyền, giải pháp an ninh mạng, ...) để cung cấp môi trường vận hành cho phần mềm quản lý các hoạt động nghiệp vụ của ngành, hệ thống dịch vụ công trực tuyến BHXH và các dịch vụ CNTT dùng chung khác của Ngành;
 
- Rà soát, bổ sung các tiêu chí quản lý của từng người, từng đơn vị tham gia BHXH, BHYT để phối hợp với cơ quan Thuế, tiếp nhận và sử dụng thông tin về doanh nghiệp và người nộp thuế từ cơ quan Thuế, tiến tới cấp mã định danh cho các cá nhân và tổ chức tham gia để quản lý phù hợp với đặc thù của Ngành;
 
- Phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội trong việc quản lý đối tượng và thực hiện giao dịch điện tử về BHTN;
 
- Phối hợp với Ban Cơ yếu Chính phủ nghiên cứu, xây dựng, triển khai các giải pháp xác thực, an toàn trong giao dịch điện tử và cấp chữ ký số để phục vụ giao dịch điện tử của Ngành BHXH. Dự kiến trong năm 2015 sẽ triển khai tiếp nhận và cấp chữ ký số cho khoảng 6.000 viên chức làm công tác thu.
 
Năm là, về công tác tổ chức cán bộ
 
Trước hết, phải khẩn trương hoàn thành việc rà soát chức năng nhiệm vụ của các đơn vị trong Ngành và quy chế công tác để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với quy định mới của Luật. Đồng thời phải xây dựng được hệ thống chức danh tiêu chuẩn, vị trí việc làm, trên cơ sở đó đạo tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ hoặc tuyển dụng cán bộ cho phù hợp với vị trí việc làm và là căn cứ để phân công nhiệm vụ, đánh giá việc thực thi công vụ đối với từng vị trí việc làm; đổi mới phương thức đánh giá, bổ nhiệm cán bộ quản lý bảo đảm minh bạch, khách quan;
 
Để nâng cao chất lượng phục vụ, BHXH Việt Nam sẽ tăng cường công tác kiểm tra kỷ cương, kỷ luật, thực thi công vụ tại BHXH các địa phương nhằm chuyển đổi tác phong làm việc theo hướng phục vụ, nâng cao trách nhiệm của cán bộ, viên chức trong công tác tiếp nhận hồ sơ và giải quyết TTHC tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân, tổ chức đến giao dịch và thụ hưởng các chế độ BHXH, BHYT; xử lý nghiêm cán bộ, viên chức có các hành vi cản trở, gây khó khăn trong giải quyết thủ tục BHXH, BHYT.
 
KIẾN NGHỊ
 
- Đề nghị cấp ủy đảng các bộ, ngành và địa phương tăng cường công tác chỉ đạo việc thực hiện chính sách BHXH thuộc lĩnh vực phụ trách; định kỳ 03 năm tổ chức đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 22/11/2012 của Bộ Chính trị.
 
- Đề nghị Quốc hội tiếp tục nghiên cứu bổ sung vào Bộ luật Hình sự tội trốn đóng BHXH; tội chiếm dụng tiền BHXH của người lao động trong trường hợp trích tiền đóng BHXH của người lao động nhưng không nộp cho cơ quan BHXH trong thời gian dài, đã bị xử phạt hành chính nhưng tiếp tục vi phạm; Tăng cường công tác giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật BHXH.
 
- Đề nghị Chính phủ: Chỉ đạo các bộ, ngành liên quan tập trung nghiên cứu, xây dựng để trình Chính phủ sớm ban hành đầy đủ các văn bản hướng dẫn thi hành Luật BHXH, đặc biệt là hướng dẫn về thanh tra chuyên ngành việc đóng BHXH (vì đây là lĩnh vực hoàn toàn mới đối với ngành BHXH);
 
- Đề nghị Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên: Tăng cường công tác tuyên truyền, vận động nhân dân, đoàn viên, hội viên thực hiện chính sách, pháp luật về BHXH, BHYT, chủ động tham gia các loại hình BHXH, BHYT phù hợp với bản thân và gia đình; tham gia bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên; phản biện xã hội, tham gia với cơ quan nhà nước trong việc xây dựng chính sách, pháp luật về BHXH, BHYT; giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về BHXH, BHYT theo quy định của pháp luật.​
 
- Đề nghị các bộ, ngành: Nghiên cứu sớm ban hành các văn bản hướng dẫn, quy định chi tiết các điều, khoản được giao trong Luật BHXH để làm cơ sở cho Ngành BHXH xây dựng các văn bản, quy trình nghiệp vụ, tổ chức tập huấn nghiệp vụ, quán triệt việc triển khai thực hiện theo tinh thần của Luật BHXH 2014.
 
- Đề nghị Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp:
 
+ Tăng cường hơn nữa công tác lãnh đạo, chỉ đạo và giám sát tình hình thực hiện chính sách, công tác quản lý nhà nước về BHXH trên địa bàn; đưa chỉ tiêu phát triển đối tượng tham gia BHXH vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm của địa phương theo Chỉ thị số 05/CT-TTg ngày 02/4/2015 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường thực hiện chính sách BHXH và BHYT; xác định kết quả thực hiện chính sách BHXH là một trong những chỉ tiêu cơ bản để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ và làm cơ sở cho việc thực hiện bình xét thi đua đối với các tổ chức và cá nhân liên quan;
 
+ Xây dựng và ban hành quy định về công tác phối hợp thực hiện chính sách BHXH trên địa bàn nhằm xác định rõ trách nhiệm của các sở, ban, ngành trong tổ chức thực hiện chính sách, trong đó tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm các vi phạm nhằm đảm bảo quyền lợi của người tham gia BHXH, BHYT.

    

More

 

 

 

Bình chọn

Theo bạn thông tin nội dung website thế nào ?

Phong phú đa dạng
Dễ sử dụng
Hữu ích

123 người đã tham gia bình chọn