Chi tiết tin - Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh
65 NĂM QUAN HỆ VIỆT NAM - TRUNG QUỐC
Việt Nam - Trung Quốc là hai nước láng giềng, núi sông liền một dải, đã có truyền thống hữu nghị lâu đời.. Sự ra đời của hai nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã mở ra trang sử mới cho mối quan hệ giữa hai nước phát triển lên một tầm cao mới. Trong chặng đường 65 năm kể từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao, dù tình hình khu vực và thế giới có nhiều biến đổi sâu sắc, quan hệ hai nước có lúc thăng lúc trầm, nhưng hợp tác hữu nghị luôn là dòng chảy chính. Hiện nay hai nước đang đứng trước những cơ hội mới và thách thức mới, yêu cầu hai bên cùng nhau giải quyết nhằm đưa quan hệ hai nước tiếp tục phát triển lành mạnh trong tương lai và đạt được nhiều thành quả thiết thực, đem lại lợi ích cho nhân dân hai nước.
Năm 2015 - năm kỷ niệm 65 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước - là dịp tốt để hai bên cùng nhìn lại chặng đường đã qua và cùng nhau hướng tới một tương lai hợp tác hữu nghị ngày càng tốt đẹp hơn.
1. Những chặng đường phát triển trong quan hệ Việt - Trung
Từ những thập kỷ đầu của thế kỷ 20, cuộc đấu tranh chống thực dân của nhân dân 2 nước Việt - Trung đã có nhiều thay đổi, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc đã trở nên gắn bó thân thiết hơn và trở thành quan hệ anh em đồng chí trong những thập kỷ tiếp theo. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Mao Trạch Đông cùng các thế hệ lãnh đạo hai nước đích thân gây dựng, vun đắp, phát triển mối tình hữu nghị mà như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói “Mối tình thắm thiết Việt Hoa vừa là đồng chí vừa là anh em”.
Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời (ngày 2-9-1945), Trung Quốc đã là nước đầu tiên trên thế giới thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam cũng là nước đầu tiên cử đại sứ sang ta. Ngày 11/9/1954, ông La Quý Ba là đại sứ nước ngoài đầu tiên trình quốc thư lên Chủ tịch Hồ Chí Minh tại chiến khu Việt Bắc. Việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc ngày 18-1-1950 là một thắng lợi quan trọng về mặt ngoại giao của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Đồng thời, các chiến sĩ cách mạng Việt Nam cũng đã tích cực tham gia phong trào cách mạng, gắn bó với lịch sử đấu tranh gian khổ của Đảng cộng sản và nhân dân Trung Quốc.
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược của Việt Nam, Trung Quốc, Liên Xô cùng các nước xã hội chủ nghĩa đã hỗ trợ mạnh mẽ cho Việt Nam về nhiều mặt. Giai đoạn 1950-1954, Việt Nam được Trung Quốc viện trợ lương thực, xăng dầu, vũ khí bộ binh, pháo và các loại đạn dược… Bên cạnh đó, Trung Quốc còn là nơi quá cảnh cho vũ khí, đạn dược và hàng hóa mà các nước khác dành cho Việt Nam. Sự giúp đỡ đó có ý nghĩa vô cùng to lớn đã góp phần tăng cường sức mạnh cho bộ đội Việt Nam. Ngoài ra, Trung Quốc còn cử tướng lĩnh, cố vấn sang giúp Việt Nam đánh Pháp. Giai đoạn từ 1965 - 1975, Trung Quốc cử nhiều đơn vị quân đội sang Việt Nam giúp nâng cấp, sửa chữa các tuyến đường giao thông trên bộ dọc biên giới Việt - Trung, bảo vệ vận chuyển đường sắt và đường ô tô từ biên giới về các tỉnh thành, qua đó giúp đẩy nhanh tốc độ vận chuyển hàng hoá cho chiến trường miền Nam. Sự giúp đỡ về vật chất lẫn tinh thần mà Trung Quốc và các nước dành cho nhân dân Việt Nam trong công cuộc kháng chiến là một biểu tượng cao đẹp của tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản, góp phần quan trọng vào thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam đã góp phần quan trọng vào tiến trình hoà bình, ổn định của khu vực Đông Nam Á, có ảnh hưởng lớn trên thế giới, đồng thời là cánh cửa mở ra triển vọng hợp tác giữa nhân dân hai nước Việt Nam và Trung Quốc.
Tuy nhiên, lịch sử quan hệ hai nước cũng trải qua những lúc thăng trầm như việc Trung Quốc chiếm quần đảo Hoàng Sa của ta (1974), gây ra cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc Việt Nam (1979), đưa quân ra chiếm 7 đảo thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam (1988)..
Đến năm 1990, trước sự thay đổi của tình hình thế giới, hai nước đều có nhu cầu bình thường hóa quan hệ. Tháng 11/1991, trong chuyến thăm Bắc Kinh của Tổng bí thư Đỗ Mười và Thủ tướng Võ Văn Kiệt, lãnh đạo Việt Nam và Trung Quốc đã tuyên bố bình thường hóa quan hệ hai nước.
Từ 1991 đến nay, quan hệ Việt - Trung tuy còn những khó khăn, nhưng nhìn tổng thể, vẫn phát triển sâu rộng trên mọi lĩnh vực. Nhận thức về tầm quan trọng của mối quan hệ ổn định, hữu nghị giữa hai nước láng giềng xã hội chủ nghĩa, lãnh đạo cấp cao hai bên đã thường xuyên tiếp xúc, trao đổi và liên tục củng cố khuôn khổ quan hệ hai nước. Hai nước đã xác định phát triển quan hệ theo phương châm 16 chữ “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần 4 tốt “Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”. Từ năm 2008, quan hệ Việt - Trung đã được nâng lên thành “quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện”, không ngừng mở rộng, ngày càng đi vào chiều sâu trong tất cả các lĩnh vực, đem lại lợi ích thiết thực cho nhân dân hai nước.
Quan hệ hợp tác giữa hai Đảng không ngừng được củng cố và phát triển. Hai bên duy trì trao đổi đoàn và thiết lập các cơ chế hợp tác giao lưu giữa các cơ quan Đảng; tiến hành thường xuyên các cuộc hội thảo lý luận, trao đổi kinh nghiệm về xây dưng Đảng, quản lý đất nước, phát triển kinh tế, xã hội; tiến hành hợp tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ…
Kim ngạch thương mại tăng lên nhanh chóng, từ 32 triệu USD năm 1991 lên 58,7 tỷ USD năm 2014, tăng tới hơn 1.500 lần. Đầu tư của Trung Quốc tính đến tháng 5/2015 có hơn 1.100 dự án với tổng số vốn 8 tỷ USD, đứng ở vị trí thứ 9 trong tổng số 101 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào Việt Nam. Hiện tại, Việt Nam có hơn 13.000 sinh viên đang học tập tại Trung Quốc và Trung Quốc cũng có 4.000 sinh viên đang học tập tại Việt Nam. Hợp tác quốc phòng, an ninh, văn hóa, thể thao, y tế, khoa học kỹ thuật... giữa hai nước cũng đạt được nhiều thành quả đáng khích lệ. Bên cạnh đó, các hoạt động giao lưu hữu nghị giữa nhân dân hai nước, nhất là giữa các địa phương khu vực biên giới, giữa các thế hệ trẻ hai nước được tổ chức thường xuyên với quy mô lớn, đã góp phần tăng cường sự hiểu biết và củng cố nền tảng hữu nghị giữa nhân dân hai nước.
Đặc biệt, hai nước đã giải quyết thành công 2 trong 3 vấn đề do lịch sử để lại, đó là hoàn thành toàn bộ công tác phân giới cắm mốc toàn tuyến biên giới trên đất liền và phân định Vịnh Bắc Bộ - một sự kiện có ý nghĩa lịch sử trọng đại, tạo tiền đề để xây dựng đường biên giới đất liền Việt – Trung thực sự trở thành đường biên giới hoà bình, ổn định, hữu nghị và hợp tác.
2. Những trở ngại chính trong quan hệ hai nước từ sau bình thường hoá quan hệ đến nay
Quan hệ Việt - Trung kể từ khi bình thường hoá quan hệ đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận, tuy nhiên hai nước vẫn còn tồn tại một số khó khăn và thách thức. Trong đó phải kể đến vấn đề Biển Đông, lòng tin trong quan hệ hai nước và tình trạng nhập siêu lớn từ Trung Quốc của Việt Nam.
Vấn đề Biển Đông là trở ngại chính trong quan hệ Việt Nam - Trung Quốc hiện nay. Đây là vấn đề phức tạp do lịch sử để lại, không thể giải quyết trong một sớm một chiều. Những diễn biến gần đây trên Biển Đông càng cho thấy sự cần thiết phải tôn trọng lợi ích chính đáng, giải quyết vấn đề bằng biện pháp hoà bình, trên cơ sở những nhận thức chung và luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển năm 1982 và thoả thuận đạt được giữa hai bên Việt - Trung như “Thoả thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển hay Tuyên bố DOC giữa Trung Quốc, ASEAN.
Lòng tin trong quan hệ hai nước đang bị xói mòn, dù sau bình thường hoá quan hệ hai nước đã có nhiều nỗ lực trong việc xây dựng lại. Nhưng việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của ta đã làm tổn thương tình cảm của nhân dân Việt Nam đối với quan hệ Việt - Trung, tác động tiêu cực đến sự tin cậy lẫn nhau mà hai bên vừa qua phải nỗ lực mới đạt được.
Một trong những trở ngại tiếp theo trong quan hệ Việt - Trung là tình trạng nhập siêu lớn của Việt Nam từ Trung Quốc. Theo số liệu của Bộ Công thương và Tổng Cục Hải quan Việt Nam, nhập siêu của Việt Nam trong cán cân thương mại với Trung Quốc tăng từ 221 triệu USD năm 2001 lên 28,16 tỷ USD năm 2014, và dự tính sẽ còn tiếp tục tăng . Việc nhập siêu quá lớn như hiện nay có nguy có phá vỡ tính bền vững trong quan hệ thương mại của hai nước. Vì vậy để giảm thiểu tác động của việc nhập siêu, một mặt hai bên phải có sự trao đổi để điều chỉnh, khắc phục, mặt khác Việt Nam phải chủ động trong nguồn nguyên liệu đầu vào và phải đa dạng hoá thị trường cung cấp.
3. Quan điểm của Đảng, Nhà nước trong phát triển quan hệ với Trung Quốc và hướng hợp tác với Trung Quốc trong thời gian tới
Trên cơ sở kiên trì đường lối đối ngoại hoà bình, độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam hết sức coi trọng việc duy trì và phát triển ổn định, bền vững quan hệ hợp tác láng giềng hữu nghị với Đảng, Nhà nước và nhân dân Trung Quốc. Chúng ta luôn xác định đây là chủ trương nhất quán, lâu dài và là sự lựa chọn chiến lược, ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Khuôn khổ quan hệ Việt - Trung là “quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện”. Trên cơ sở đó, tất cả các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức nhân dân cần tăng cường quan hệ hợp tác với Trung Quốc theo tinh thần nhận thức chung của lãnh đạo hai Đảng, hai nước được ghi trong Thông cáo chung gần đây nhất (9-4-2015).
Trở ngại chính hiện nay trong quan hệ với Trung Quốc là vấn đề tranh chấp biên giới lãnh thổ, cụ thể là vấn đề Biển Đông. Tranh chấp trên Biển Đông không phải là toàn bộ mà chỉ là một phần của quan hệ Việt - Trung. Tuy nhiên nếu không giải quyết tốt sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ quan hệ hợp tác, hữu nghị hai bên. Trong quá trình giải quyết tranh chấp, ta cố gắng đạt được mục tiêu giữ vững môi trường hoà bình ổn định, giữ vững chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, giữ gìn mối quan hệ hữu nghị với nhân dân Trung Quốc.
Việt Nam và Trung Quốc đã nhất trí giải quyết vấn đề trên biển thông qua hình thức đàm phán hữu nghị, tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được, trước mắt tích cực nghiên cứu giải pháp mang tính quá độ, không ảnh hưởng đến lập trường chủ trương của mỗi bên. Hai bên cần tuân thủ nhận thức chung giữa lãnh đạo cấp cao hai nước; tuân thủ luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển năm 1982; nghiêm túc thực hiện “Thoả thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc”; thực hiện Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và phấn đấu để sớm đạt được Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) trên tinh thần hiệp thương thống nhất giữa các bên liên quan; không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp; duy trì hoà bình, ổn định ở Biển Đông.
4. Quan hệ hợp tác giữa phụ nữ hai nước Việt Nam - Trung Quốc
Cùng góp phần xây dựng mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Việt Nam với Trung Quốc, phụ nữ Việt Nam và Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam cũng không đứng ngoài cuộc.
Đối tác phụ nữ chủ yếu của Hội ở Trung Quốc hiện nay là Hội Liên hiệp Phụ nữ Toàn quốc Trung Hoa.
Một số nét về Hội Liên hiệp Phụ nữ Toàn quốc Trung Hoa:
Được thành lập ngày 3/4/1949, Hội Liên hiệp Phụ nữ Toàn quốc Trung Hoa (Hội LHPNTQ Trung Hoa) là một tổ chức quần chúng đoàn kết mọi tầng lớp phụ nữ các dân tộc Trung Hoa hoạt động vì sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Hội LHPNTQ Trung Hoa hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, là cầu nối giữa Đảng, Chính phủ với Phụ nữ. Hội LHPNTQ Trung Hoa là thành viên của Ủy ban Công tác Trẻ em và Phụ nữ, Quốc vụ viện Trung Quốc (tức Chính phủ Trung Quốc). Hội LHPNTQ Trung Hoa có vị trí tham vấn đặc biệt với Hội đồng Kinh tế Xã hội Liên hiệp quốc (ECOSOC).
Hội LHPNTQ Trung Hoa có hệ thống tổ chức 4 cấp từ Trung ương đến xã như ở Việt Nam, có đội ngũ chuyên trách được Nhà nước cấp lương, tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất, kinh phí hoạt động và các trang thiết bị, điều kiện làm việc. Hội viên của Hội Liên hiệp là hội viên tập thể (khác với Hội LHPNVN hội viên là cá nhân) như Hội nữ luật sư, nữ Chủ tịch thành phố, Hội nữ nhiếp ảnh... Người phụ trách hội viên tập thể là Ủy viên chấp hành của Hội LHPNTQ Trung Hoa. Đối tượng đại diện, chăm lo của Hội LHPNTQ Trung Hoa là phụ nữ và trẻ em (ở Việt Nam, Hội tác động gián tiếp tới trẻ em chủ yếu thông qua bà mẹ và các hoạt động khác). Hoạt động của Hội LHPNTQ Trung Hoa rất phong phú, hướng tới mục đích chăm lo, bảo vệ tốt hơn cho phụ nữ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt tập trung vào 3 lĩnh vực: Hỗ trợ nâng cao địa vị kinh tế; bảo vệ thông qua tác động ban hành chính sách; và tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong chính trị, trong lãnh đạo quản lý.
Quan hệ giữa Hội LHPN Việt Nam và Hội Liên hiệp Phụ nữ Toàn quốc Trung Hoa:
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và Hội Liên hiệp Phụ nữ Toàn quốc Trung Hoa có mối quan hệ hữu nghị láng giềng truyền thống từ lâu. Ngay từ năm 1961, được sự giới thiệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hội LHPNTQ Trung Hoa đã cử đoàn đại biểu cấp cao do bà Đặng Dĩnh Siêu, Chủ tịch Hội dẫn đầu sang thăm Việt Nam và dự Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ 3 của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
Từ năm 1993 đến nay, hai Hội đã nhiều lần trao đổi đoàn và tiếp xúc cấp cao nhân các sự kiện quốc tế ở hai nước, đơn cử một số đoàn lãnh đạo Hội LHPN Việt Nam thăm và làm việc tại Trung Quốc gồm: Chủ tịch Hội Trương Mỹ Hoa thăm và làm việc tại Trung Quốc (1993); Đoàn đại biểu cấp cao Hội LHPN Việt Nam (hơn 40 đại biểu) do Chủ tịch Hội Trương Mỹ Hoa dẫn đầu tham dự Hội nghị Thế giới lần thứ 4 về Phụ nữ tại Bắc Kinh, Trung Quốc (9/1995); Chủ tịch Hội Hà Thị Khiết thăm Trung Quốc và dự lễ kỷ nệm 10 năm Hội nghị Thế giới về phụ nữ (8/2005); đoàn do Chủ tịch Hội Nguyễn Thị Thanh Hoà thăm chính thức Trung Quốc (12/2008); đoàn do Phó Chủ tịch Thường trực Đặng Thị Ngọc Thịnh dẫn đầu sang học tập mô hình quản lý Trung tâm Phụ nữ và Phát triển, nghiên cứu về công tác phụ nữ và phát triển doanh nghiệp (3/2009); đoàn do Chủ tịch Hội Nguyễn Thị Thanh Hòa dẫn đầu tham dự Diễn đàn Quốc tế về “Phụ nữ trong phát triển đô thị và Kỷ niệm 15 năm Hội nghị Thế giới lần thứ 4 về phụ nữ” (9/2010); đoàn do Phó Chủ tịch Hội Trần Thanh Bình tham dự “Diễn đàn quốc tế về Phụ nữ và phát triển bền vững” (11/2011), đoàn do Phó Chủ tịch Thường trực Hoàng Thị Ái Nhiên dẫn đầu thăm và học tập kinh nghiệm của Trung tâm Hoạt động Phụ nữ, trực thuộc Hội Liên hiệp Phụ nữ Toàn quốc Trung Hoa (11/2012). Ngoài ra, Hội LHPN Việt Nam còn cử một số đoàn cấp vụ và chuyên viên, đoàn của các đơn vị trực thuộc như Trung tâm Phụ nữ và Phát triển, Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam sang Trung Quốc dự hội nghị, hội thảo, tập huấn và học tập kinh nghiệm về doanh nghiệp nữ, kinh doanh nhà hàng, khách sạn, phụ nữ tham chính, hoạt động xuất bản...
Phía bạn cũng cử một số đoàn công tác sang Việt Nam thăm và làm việc với Hội LHPN Việt Nam: Đoàn do bà Hoa Phúc Chu, Phó Chủ tịch Hội LHPNTQ Trung Hoa, ủy viên Chính hiệp Toàn quốc Trung Hoa dẫn đầu (3/2000); Bà Cố Tú Liên, Phó Chủ tịch Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc (tức Quốc hội Trung Quốc), Chủ tịch Hội LHPNTQ Trung Hoa đến thăm TW Hội nhân dịp sang dự Hội nghị Nghị sỹ Châu Á – Thái bình dương lần thứ 13 tại Hà Nội (1/2005); Đoàn do bà Mạnh Hiểu Tứ, Phó Chủ tịch Hội LHPNTQ Trung Hoa dẫn đầu sang thăm và làm việc với Hội kết hợp dự Đại hội đồng Liên đoàn các tổ chức Phụ nữ ASEAN (ACWO) lần thứ 14 và nhân kỷ niệm 60 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam - Trung Quốc (10/2010).
Trong các chuyến thăm hữu nghị chính thức và tiếp xúc cấp cao, lãnh đạo hai Hội đã chia sẻ thông tin về tình hình phát triển của mỗi nước, nhất là tiến bộ về bình đẳng giới và phát triển của phụ nữ; phong trào phụ nữ và kinh nghiệm hoạt động của Hội, trao đổi các lĩnh vực cùng quan tâm như tác động chính sách về phụ nữ, thúc đẩy phụ nữ tham chính, dạy nghề, tạo việc làm cho phụ nữ, hỗ trợ phụ nữ xóa đói giảm nghèo, khởi sự doanh nghiệp, phát triển kinh tế; chăm sóc sức khỏe...Việc ký kết Thoả thuận Hợp tác giữa hai Hội Liên hiệp Phụ nữ đã được đề cập tới gần đây và sẽ được hai bên tiếp tục trao đổi - tạo cơ sở thuận lợi cho Hội Phụ nữ các cấp, đặc biệt Hội Phụ nữ các tỉnh giáp biên của hai nước, tăng cường hợp tác và quan hệ hữu nghị, xây dựng đường biên giới hoà bình, ổn đinh, phát triển.
Ngoài ra, hai Hội duy trì việc trao đổi thông tin, gửi điện mừng hoặc chia buồn, động viên chia sẻ với nhau để vượt qua thiên tai . Hội LHPN Việt Nam đã gửi điện chia buồn về những thiệt hại do trận động đất tại tỉnh Tứ Xuyên (5/2008), về sự cố tàu Ngôi sao Phương Đông bị lật chìm trên sông Trường Giang, Trung Quốc đã khiến nhiều người thiệt mạng và mất tích (1/6/2015). Hội Liên hiệp Phụ nữ Toàn quốc Trung Hoa đã tặng chăn màn, quần, áo giúp phụ nữ và trẻ em các tỉnh miền Trung bị lũ lụt năm 2009 và tặng TW Hội một số các trang thiết bị văn phòng (3/2011). Đại sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc và Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam đóng góp tích cực trong việc kết nối và thúc đẩy quan hệ giữa Hội phụ nữ hai nước.
Cùng với hoạt động hợp tác ở cấp trung ương, phụ nữ tại một số tỉnh giáp biên như Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào Cai, Lai Châu…đã phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương trong việc xây dựng quan hệ hợp tác với nhân dân và phụ nữ Trung Quốc qua các hoạt động như trao đổi thông tin, giao lưu, hợp tác, tổ chức hội thảo về phòng chống buôn bán phụ nữ và trẻ em ... nhằm xây dựng đường biên giới Việt Nam - Trung Quốc hoà bình, hữu nghị, hợp tác và ổn định. Đáng chú ý năm 2014, Hội LHPN tỉnh Cao Bằng đã ký kết Thỏa thuận Hợp tác với Hội Phụ nữ Khu tự trị Dân Tộc Choang, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc trong đó chú trọng nâng cao nhận thức về phòng chống ma tuý, HIV/AIDs, mua bán người, môi giới hôn nhân bất hợp pháp, quản lý công tác lao động nữ qua biên giới và bồi dưỡng nâng cao kỹ năng cho lao động nữ; thúc đẩy tăng cường giao lưu hợp tác kinh tế.
Tuy nhiên quan hệ hai Hội vẫn chưa phát huy được hết tiềm năng phát triển: Việc trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm chưa nhiều, không thường xuyên, chủ yếu thông qua trao đổi một số đoàn cấp cao, gặp gỡ tiếp xúc qua hoạt động đa phương; các hoạt động giao lưu, hợp tác giữa phụ nữ tại các tỉnh giáp biên cònhạn chế do thiếu kinh phí, bất đồng ngôn ngữ và đội ngũ cán bộ còn thiếu kiến thức về hoạt động đối ngoại. Do vậy, cần có sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước và sự sáng tạo, chủ động của Hội Phụ nữ các cấp để quan hệ giữa phụ nữ hai nước có thể đi vào chiều sâu.
Để góp phần tăng cường sự hiểu biết, tình hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa nhân dân và phụ nữ hai nước Việt Nam - Trung Quốc, các cấp Hội địa phương, đặc biệt các tỉnh giáp biên (bao gồm Lạng Sơn, Lai Châu, Cao Bằng, Điện Biên, Hà Giang, Quảng Ninh và Lào Cai) cần quan tâm:
- Tuyên truyền giáo dục cho các thế hệ phụ nữ về mối quan hệ truyền thống giữa nhân dân và phụ nữ hai nước và quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về phát triển quan hệ Việt - Trung.
- Chủ động đề nghị với cấp ủy, chính quyền địa phương tạo điều kiện cho Hội phụ nữ tham gia các hoạt động đối ngoại của tỉnh, hỗ trợ kinh phí hoạt động đối ngoại của Hội như tổ chức giao lưu, trao đổi đoàn, toạ đàm, chia sẻ kinh nghiệm công tác Hội, phòng chống buôn bán phụ nữ và trẻ em qua biên giới, nghiên cứu ký kết hợp tác với Hội phụ nữ các địa phương phía Trung Quốc trong điều kiện cho phép.
- Phối hợp vận động và thực hiện các dự án phục vụ dân sinh, xóa đói giảm nghèo cho các xã vùng biên, giải quyết các vấn đề liên quan đến bình đẳng giới, phòng chống mua bán phụ nữ qua biên giới.
- Quan tâm phân công và có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng năng lực và trình độ kể cả ngoại ngữ cho cán bộ làm công tác đối ngoại đáp ứng yêu cầu phát triển quan hệ giữa phụ nữ hai nước trong tình hình mới./.
Ban Quốc tế, TW Hội LHPN Việt Nam - Tháng 9/2015
Tài liệu tham khảo:
1. Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh: Phát triển quan hệ hợp tác hữu nghị Việt Nam - Trung Quốc vì hòa bình, ổn định và phồn vinh http://www.mofa.gov.vn/vi/nr040807104143/nr111027144142/ns150118172456>
2. Nguyễn Vinh Quang, Vụ trưởng Vụ Trung Quốc - Đông Bắc Á, Ban Đối ngoại Trung ương “Chủ tịch Hồ Chí Minh với những người cộng sản Trung Quốc” , Tạp chí đối ngoại (số 10/2012)
3. Việt Nam luôn coi trọng quan hệ hợp tác bình đẳng với Trung Quốc. <http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/viet-nam-luon-coi-trong-quan-he-hop-tac-binh-dang-voi-trung-quoc-3135358.html>
4. Bốn thành tựu và ba trở ngại trong quan hệ Việt – Trung.<http://vnexpress.net/tin-tuc/the-gioi/bon-thanh-tuu-va-ba-tro-ngai-trong-quan-he-viet-trung-3132907.html.>
5. Chuyến thăm Việt Nam của bà Đặng Dĩnh Siêu và cuốn album tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu tại kho cơ sở Bảo tàng Hồ Chí Minh.<http://www.baotanghochiminh.vn/TabId/489/ArticleId/7095/PreTabId/456/Default.aspx>
6. Quan hệ Việt – Trung trong thập niên 70 thế kỷ 20 <http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php?topic=26733.0>
7. Tài liệu lưu trữ của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
Các tin khác
- 20 NĂM QUAN HỆ VIỆT NAM – MỸ VÀ HỢP TÁC TRONG VẤN ĐỀ PHỤ NỮ (18/09/2015)
- Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 70 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh nước CHXHCN Việt Nam (11/12/2015)
- (11/12/2015)
- Tài liệu sinh hoạt hội viên Quý II/2015 (11/12/2015)
- Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 125 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/2015) (11/12/2015)
- Đề cương tuyên truyền 40 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (22/04/2015)
- Tài liệu sinh hoạt hội viên Quý 1/2015 (11/12/2015)
- Những câu hỏi tìm hiểu chung về biển, đảo Việt Nam (15/01/2016)
- Tìm hiểu Hiến pháp 2013 (11/12/2015)
VĂN BẢN MỚI
WEBSITE SỞ NGÀNH
Bình chọn
Theo bạn thông tin nội dung website thế nào ?
123 người đã tham gia bình chọn










