Chi tiết tin - Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh
CỘNG ĐỒNG ASEAN VÀ HỢP TÁC VỀ PHỤ NỮ TRONG ASEAN
1. Cộng đồng ASEAN 2015
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập ngày 8/8/ 1967 với 5 nước thành viên ban đầu là In-đô-nê-xi-a, Ma-lay-xi-a, Phi-líp-pin, Xin-ga-po và Thái Lan. Hiện nay ASEAN đã trở thành một tổ chức hợp tác khu vực liên Chính phủ bao gồm 10 quốc gia Đông Nam Á - thêm 5 nước là Bru-nây, Căm-pu-chia, Lào, Mi-an-ma và Việt Nam (Việt Nam gia nhập ASEAN ngày 28/7/1995). Năm 2007, ngày 8-8 được chính thức chọn là Ngày ASEAN.
Hiện nay, ASEAN đang hướng tới hình thành Cộng đồng ASEAN vào cuối năm 2015 với ba trụ cột chính: Cộng đồng Chính trị - An ninh, Cộng đồng Kinh tế và Cộng đồng Văn hóa xã hội và hoạt động dựa trên cơ sở pháp lý là Hiến chương ASEAN.
Tiến trình hình thành cộng đồng ASEAN bắt đầu từ những năm 90 với việc ASEAN thông qua Văn kiện quan trọng Tầm nhìn ASEAN 2020 vào năm 1997 với mục tiêu tổng quát là đưa Hiệp hội trở thành “một nhóm hài hoà các dân tộc Đông Nam Á, gắn bó trong một cộng đồng các xã hội đùm bọc lẫn nhau”. Năm 2003 là dấu mốc quan trọng với việc ASEAN đề ra mục tiêu hình thành cộng đồng chung trên ba trụ cột chính là Cộng đồng Chính trị - An ninh (ASC), Cộng đồng Kinh tế (AEC) và Cộng đồng Văn hóa-Xã hội (ASCC). Đến tháng 1/2007, ASEAN quyết định đẩy nhanh tiến trình liên kết nội khối vào năm 2015 (thay vì vào năm 2020 như thỏa thuận trước đây) để kịp thích ứng với những chuyển biến nhanh chóng và phức tạp của tình hình quốc tế và khu vực. Quan hệ đối ngoại của ASEAN cũng như mục tiêu thu hẹp khoảng cách phát triển trong ASEAN được lồng ghép vào nội dung của từng trụ cột Cộng đồng ASEAN.
Mục tiêu tổng quát của Cộng đồng ASEAN là xây dựng Hiệp hội thành một tổ chức hợp tác liên Chính phủ liên kết sâu rộng hơn và ràng buộc hơn trên cơ sở pháp lý là Hiến chương ASEAN, nhưng không phải là một tổ chức siêu quốc gia.
Một số nội dung cơ bản của 3 trụ cột của cộng đồng ASEAN:
* Cộng đồng Chính trị - An ninhASEAN (APSC): Mục tiêu lànhằm tạo dựng một môi trường hòa bình và an ninh cho phát triển ở khu vực Đông Nam Á thông qua việc nâng hợp tác chính trị-an ninh ASEAN lên tầm cao mới, với sự tham gia và đóng góp xây dựng của các đối tác bên ngoài; không hướng tới thiết lập một liên minh quân sự, hoặc khối phòng thủ chung. Các nội dung hợp tác chính gồm: (i) Hợp tác chính trị; (ii) Xây dựng và chia sẻ chuẩn mực ứng xử; (iii) Ngăn ngừa xung đột; (iv) Giải quyết xung đột; (v) Kiến tạo hòa bình sau xung đột; và (vi) Cơ chế thực hiện.
Hiện tại ASEAN đã thực hiện 88% của Kế hoạch tổng thể xây dựng Cộng đồng Chính trị - An ninh.
Đến nay thành công lớn nhất của ASEAN là xây dựng được Hiến chương ASEAN năm 2007 - khung pháp lý và thể chế hỗ trợ ASEAN gia tăng liên kết khu vực và xây dựng cộng đồng… Đáng chú ý là ASEAN đã thiết lập các cơ chế đối thoại, hợp tác, các chuẩn mực ứng xử chung trong quan hệ giữa các nước, kể cả với các nước ngoài khu vực, như Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á (TAC), Tuyên bố về Ứng xử của các bên liên quan trên Biển Đông (DOC), nhằm củng cố môi trường hòa bình, an ninh và ổn định ở khu vực. ASEAN tiếp tục cùng Trung Quốc triển khai Quy tắc hướng dẫn thực hiện DOC cũng như duy trì cơ chế trao đổi ở cấp SOM (Cuộc họp các quan chức cao cấp) về thực hiện DOC, hướng tới xây dựng Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC); đàm phán với 5 nước có vũ khí hạt nhân (Trung Quốc, Pháp, Nga, Anh và Hoa Kỳ) hướng tới việc các nước này sớm ký kết nghị định thư tham gia Hiệp ước Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân (SEANWFZ) để Hiệp ước này sớm có hiệu lực.
* Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC): Mục tiêu lànhằm tạo ra một thị trường chung duy nhất và cơ sở sản xuất thống nhất, trong đó có sự lưu chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, vốn và lao động có tay nghề; từ đó nâng cao tính cạnh tranh và thúc đẩy sự thịnh vượng chung cho cả khu vực; tạo sự hấp dẫn với đầu tư – kinh doanh từ bên ngoài. Đến cuối năm 2015, ASEAN phấn đấu trở thành: (1) Một thị trường duy nhất và một cơ sở sản xuất thống nhất, trong đó có sự lưu chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, vốn và lao động có tay nghề ; (2) Một khu vực kinh tế có sức cạnh tranh cao; (3) Một khu vực phát triển kinh tế đồng đều, nhất là thực hiện có hiệu quả Sáng kiến liên kết ASEAN (IAI); (4) Một khu vực ASEAN hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế toàn cầu.
Tới tháng 2/2015, ASEAN đã hoàn thành hơn 75% các mục tiêu đề ra của trụ cột này. Một số kết quả cụ thể như ASEAN đã ký kết thỏa thuận tăng cường hợp tác kinh tế của ASEAN và giữa ASEAN với các nước đối thoại như: Hiệp định Đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA- có hiệu lực từ 29/3/2012); Hiệp định Hải quan ASEAN (có hiệu lực từ 30/9/2012). Về tự do hóa thương mại và dịch vụ, ASEAN đã thông qua Kế hoạch làm việc chung nhằm tự do hóa thương mại dịch vụ đến năm 2015; thí điểm thực hiện tự chứng nhận xuất xứ hướng tới tự chứng nhận xuất xứ chung của ASEAN vào năm 2015; thực hiện các Hiệp định đa biên ASEAN về hàng không; đồng thời tiếp tục triển khai Khuôn khổ ASEAN về phát triển kinh tế đồng đều…
Xây dựng Cộng đồng ASEAN là một tiến trình lâu dài. Do vậy, dự kiến đến cuối năm 2015, có thể ASEAN chưa hoàn thành được hết các mục tiêu đề ra về xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN, nhưng cũng không vì thế mà ảnh hưởng đến việc tuyên bố ra đời AEC.
* Cộng đồng Văn hóa – Xã hội ASEAN (ASCC):
Mục tiêu là nhằm xây dựng một Cộng đồng ASEAN lấy người dân làm trung tâm và có trách nhiệm xã hội nhằm đạt được tình đoàn kết và thống nhất bền lâu giữa các quốc gia và người dân ASEAN thông qua việc tạo dựng một bản sắc chung và một xã hội chia sẻ, đùm bọc, hòa thuận và rộng mở nơi cuộc sống, mức sống và phúc lợi của người dân được nâng cao.
Các nội dung chính của trụ cột này gồm (1) Phát triển con người; (2) Phúc lợi xã hội và bảo vệ; (3) Công bằng xã hội và các quyền; (4) Đảm bảo môi trường bền vững; (5) Xây dựng bản sắc ASEAN; và (6) Thu hẹp khoảng cách phát triển.
Cho đến nay gần 97% các biện pháp đề ra trong Kế hoạch tổng thể ASCC đã được thực hiện, bao gồm: khuyến khích phát triển giáo dục suốt đời và sử dụng Công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) như là những phương tiện thúc đẩy nền giáo dục ASEAN và nâng cao nhận thức về ASEAN; tập trung ngăn ngừa và kiểm soát bệnh dịch truyền nhiễm, HIV và AIDS, và các bệnh dịch truyền nhiễm khác; thành lập các ủy ban ASEAN bảo vệ quyền của phụ nữ, trẻ em và lao động di cư; thành lập trung tâm hỗ trợ nhân đạo nhằm kịp thời hỗ trợ về vật chất cho người dân trong thiên tai, thảm họa khẩn cấp; tăng cường các hoạt động trao đổi văn hóa, thông tin giữa các nước trong khu vực…
Hiện nay ASEAN đang thảo luận Tầm nhìn sau 2015 trên cả ba trụ cột: với APSC là sự tiếp tục bảo đảm một cách hiệu quả hơn môi trường hòa bình, an ninh, ổn định ở khu vực; với AEC, bên cạnh tự do hóa, sự thịnh vượng và hợp tác, sẽ nhấn mạnh đến sáng tạo, đến khả năng chống đỡ với sự bất ổn định do các cú sốc bên ngoài; với ASCC, tăng cường khả năng tiếp cận an sinh và phúc lợi xã hội, thúc đẩy phát triển con người, việc làm xanh và bền vững, ứng phó với biến đổi khí hậu và thiên tai...
2. Lợi ích của cộng đồng ASEAN đối với người dân
Về chính trị, an ninh, ASEAN sẽ hướng tới một Cộng đồng trong đó mỗi người dân sẽ có cơ hội được sống trong một môi trường hòa bình, hữu nghị, nơi các dân tộc Đông Nam Á đoàn kết, hợp tác vì sự phát triển và thịnh vượng chung của khu vực.
Về kinh tế, AEC được hình thành sẽ mở ra một thị trường kinh tế hơn 600 triệu người dân với tổng GDP hàng năm đạt gần 3000 tỷ USD. Hàng rào thuế quan được loại bỏ, các hàng rào phi thuế được cắt giảm sẽ giúp hàng hóa, dịch vụ, vốn, lao động lưu chuyển thông thoáng hơn, tạo tiền đề nâng cao sức mạnh kinh tế của khu vực ASEAN.
ASEAN cũng đang thúc đẩy việc lập Thẻ Doanh nhân ASEAN, Cổng xuất nhập cảnh ASEAN tại các cửa khẩu... nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho giới doanh nhân và người dân ASEAN di chuyển dễ dàng hơn trong khu vực.
Thị trường khu vực liên kết là điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế trên cơ sở khai thác các lợi thế khu vực, giảm chi phí đầu vào, hạ giá thành sản phẩm, mở rộng thị trường xuất khẩu.
AEC cũng là khu vực giao thoa của nhiều hiệp định thương mại song phương và khu vực. Các doanh nghiệp sẽ có cơ hội tiếp cận các thị trường rộng lớn như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ốt-xtrây-lia, Niu Di-lân và Ấn Độ thông qua các FTA giữa ASEAN và các đối tác.
Bên cạnh đó, những nỗ lực của ASEAN về tự do hóa đầu tư thông qua Hiệp định Đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA) sẽ làm tăng tính hấp dẫn của thị trường ASEAN đối với các nhà đầu tư trong khối cũng như từ các nước đối tác.
AEC còn là cơ hội để các nước như Việt Nam tham gia chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu, thực hiện các mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Một nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng việc thực hiện đầy đủ AEC và các hiệp định FTA ASEAN+1 (ASEAN và 1 nước ngoài khối)[1] vào năm 2018 sẽ giúp các nước ASEAN tăng thu nhập quốc dân thêm 4,5% so với năm 2007, tạo việc làm, giúp lương của lao động giản đơn tăng hơn 7,6%, riêng lương của lao động lành nghề có thể tăng tới 9,6%.
Về văn hóa-xã hội, ASEAN hướng tới một cộng đồng các dân tộc Đông Nam Á sống trong hài hòa, đoàn kết, đùm bọc và chia sẻ, hướng tới người dân, chăm lo cho phúc lợi, môi trường sống ngày càng tốt hơn của người dân, trao quyền nhiều hơn cho phụ nữ và tạo dựng một bản sắc chung của khu vực.
Hợp tác về giáo dục, đào tạo, tiến tới công nhận bằng cấp của các nước trong ASEAN, sẽ tạo điều kiện nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, tạo cơ hội cho công dân các nước ASEAN có khả năng tìm kiếm việc làm trong khu vực.
Về hợp tác ứng phó với các thách thức, đặc biệt là thách thức an ninh phi truyền thống đang được ASEAN đẩy mạnh. Các thách thức an ninh phi truyền thống đang có xu hướng gia tăng, thu hút được sự quan tâm của nhiều nước và trở thành mối quan tâm hàng đầu trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Những thách thức an ninh phi truyền thống đều mang tính xuyên quốc gia, vượt ra ngoài khả năng giải quyết của bất kỳ quốc gia nào và đòi hỏi sự nỗ lực hợp tác của tất cả các nước trong khu vực. Vì thế hợp tác của ASEAN trong vấn đề này sẽ giúp người dân có được cuộc sống an toàn hơn, bảo vệ tốt hơn trước các nguy cơ dịch bệnh, bảo vệ và hỗ trợ kịp thời trong trường hợp gặp thảm họa...
3. Việt Nam trong ASEAN
3.1. Sự tham gia của Việt Nam trong ASEAN
Sau 20 năm gia nhập ASEAN (1995 – 2015), với phương châm chủ động, tích cực và có trách nhiệm, Việt Nam đã tham gia sâu rộng, toàn diện vào quá trình hợp tác ASEAN. Việt Nam luôn là thành viên tích cực, có trách nhiệm và có nhiều đóng góp vì hòa bình, ổn định và phát triển thịnh vượng của ASEAN. Việt Nam đã thúc đẩy kết nạp các nước Lào, Mi-an-ma và Căm-pu-chia, quy tụ 10 quốc gia ở Đông Nam Á vào ASEAN; tổ chức thành công Hội nghị Cấp cao ASEAN VI tại Hà Nội (12/1998), giúp ASEAN duy trì đoàn kết, hợp tác và củng cố vị thế quốc tế của ASEAN trong thời điểm khó khăn nhất; tham gia xác định phương hướng hợp tác và các quyết sách lớn của ASEAN, như xây dựng Tầm nhìn 2020, Chương trình Hành động Hà Nội, Tuyên bố Hà Nội về Thu hẹp khoảng cách phát triển... Việt Nam cũng cùng các nước ASEAN thúc đẩy và phát huy tác dụng của các cơ chế bảo đảm an ninh khu vực; cùng các nước ASEAN đàm phán và thúc đẩy hợp tác và tự do hoá về thương mại, dịch vụ, đầu tư trong và ngoài khối như thực hiện AFTA, Hành lang Đông Tây; tham gia tích cực vào tất cả các lĩnh vực hợp tác chuyên ngành của ASEAN.
Đặc biệt, dưới chủ đề Hướng tới Cộng đồng ASEAN: từ Tầm nhìn đến Hành động và với phương châm “tích cực, chủ động và có trách nhiệm”, Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc vai trò Chủ tịch ASEAN năm 2010, góp phần cụ thể hóa mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN 2015 và đạt nhiều tiến triển cụ thể trong việc triển khai Hiến chương ASEAN và Lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN trên cả ba trụ cột chính trị - an ninh, kinh tế và văn hóa – xã hội, Cũng trong năm 2010, ta đã chủ trì xây dựng, hoàn tất và trình Lãnh đạo thông qua Kế hoạch tổng thể kết nối ASEAN, đưa kết nối khu vực trở thành một mắt xích quan trọng trong toàn bộ tiến trình xây dựng Cộng đồng ASEAN 2015.
Trong lĩnh vực quan hệ đối ngoại của ASEAN, Việt Nam đã thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa ASEAN với các nước Đối thoại, góp phần nâng cao tiếng nói và vị thế của ASEAN trên thế giới…
3.2. Sự chuẩn bị của Việt Nam với cộng đồng ASEAN
Hướng tới Cộng đồng chung ASEAN, hiện nay các nước thành viên ASEAN đang tích cực chuẩn bị trong nội bộ nước mình, trong đó Thái Lan, Ma-lay-xi-a và Xin-ga-po là 3 nước được đánh giá là có sự chuẩn bị tốt nhất cho Cộng đồng ASEAN 2015. Hầu hết các nước đều chú trọng nâng cao nhận thức về Cộng đồng ASEAN và chất lượng nguồn nhân lực (đào tạo ngoại ngữ, dạy nghề kết hợp thực hành cho lao động trẻ...).
Đối với Việt Nam, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã đề ra chủ trương “chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh”. Hiện nay, Việt Nam đang tích cực triển khai Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Đề án "Phương hướng và biện pháp Việt Nam tham gia hợp tác ASEAN đến năm 2015". Bộ Ngoại giao, Bộ Công Thương và Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội được giao chủ trì 3 trụ cột Cộng đồng đã chủ động thực hiện các kế hoạch, chương trình hợp tác, lồng ghép các nội dung hợp tác vào các chương trình quốc gia.
Trong lĩnh vực kinh tế, đối với các biện pháp ưu tiên mà các Bộ trưởng Kinh tế ASEAN đã đề ra tới hết năm 2014, Việt Nam là một trong 2 nước có tỷ lệ cao nhất trong ASEAN, đạt khoảng 93,5%, so với mức chung của ASEAN là 90,5% (457/505 dòng hành động) (ngang với Xing-ga-po). Điều này thể hiện sự nghiêm túc và nỗ lực của Việt Nam trong việc chung sức xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN vào cuối năm 2015. Trong lĩnh vực giáo dục, Việt Nam đã có nhiều điều chỉnh nhằm chuẩn bị cho thế hệ trẻ hội nhập tốt trong cộng đồng ASEAN như thực thi luật giáo dục tiểu học; thực hiện chính sách xã hội hóa giáo dục; áp dụng phương pháp dạy và học mới; hợp tác với các tổ chức giáo dục nước ngoài.Thách thức với Việt Nam chủ yếu liên quan đến năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và cơ sở hạ tầng kém phát triển so với các nước trong khu vực, bao gồm cả yếu tố hạ tầng cứng (đường sá, cảng biển, năng lượng…) và hạ tầng mềm (hệ thống pháp lý, bộ máy hành chính…); năng lực và cơ chế điều phối; nguồn lực thực hiện; nhận thức hạn chế của doanh nghiệp và người dân về cộng đồng ASEAN.
4. Hợp tác về phụ nữ trong ASEAN
Các nhà lãnh đạo ASEAN luôn đánh giá cao vai trò của phụ nữ và ủng hộ thúc đẩy sự tham gia đóng góp chủ động và tích cực của phụ nữ trong tiến trình hình thành Cộng đồng ASEAN. Từ năm 1975, các vấn đề phụ nữ được đưa vào các chương trình của khu vực, được triển khai trong khuôn khổ Ủy ban ASEAN về các vấn đề văn hóa – xã hội.
ASEAN đã ban hành nhiều văn kiện quan trọng về phụ nữ với ưu tiên quan tâm thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ của phụ nữ, như Tuyên bố ASEAN về sự tiến bộ của phụ nữ (5/7/1988) tại Băng Cốc, Thái Lan. Từ năm 1998, ngày 5/7 cũng được chọn là Ngày Phụ nữ ASEAN với mục đích nâng cao nhận thức của người dân về vai trò và sự đóng góp của phụ nữ ASEAN trong tiến trình khu vực, đồng thời kêu gọi chính phủ các nước ASEAN và các tổ chức phụ nữ cùng nhau hành động vì sự bình đẳng và tiến bộ của phụ nữ; : Tuyên bố về xóa bỏ bạo lực với phụ nữ (năm 2004) tại Lào; Tuyên bố Hà Nội về Tăng cường Phúc lợi và Phát triển cho Phụ nữ và Trẻ em ASEAN năm 2010, tại Việt Nam.
Hội nghị Bộ trưởng ASEAN về Phụ nữ lần đầu tiên được tổ chức vào ngày 19/10/2012 tại Lào, với chủ đề “Tăng cường quan điểm giới và quan hệ đối tác của phụ nữ trong môi trường bền vững”. Hội nghị đã tập trung đánh giá những thành tựu nổi bật trong việc thực hiện các dự án cũng như kế hoạch của Ủy ban phụ nữ ASEAN 2011-2015 nhằm tăng cường bình đẳng giới, quyền phụ nữ và công bằng xã hội cho phụ nữ trong khu vực; khẳng định cam kết tiếp tục hợp tác của phụ nữ trong việc tăng cường lồng ghép giới trong quá trình xây dựng Cộng đồng Văn hóa – Xã hội ASEAN 2009-2015.
Hiện nay,ASEAN có nhiều cơ chế hợp tác riêng ở cấp chính phủ về phụ nữ gồm: Ủy ban Phụ nữ ASEAN (ACW); Ủy ban Phụ nữ ASEAN + 3 (ACW+3)[2]; Hội nghị Bộ trưởng ASEAN về Phụ nữ; Ủy ban thúc đẩy và bảo vệ quyền phụ nữ và trẻ em ASEAN (ACWC); Mạng lưới các doanh nghiệp nữ ASEAN (AWEN). Ngoài ra, trong khu vực hiện có nhiều tổ chức, diễn đàn phi chính phủ về phụ nữ như Liên đoàn các Tổ chức Phụ nữ ASEAN (ACWO)[3] mà Hội LHPNVN là thành viên; Nhóm Phụ nữ ASEAN (AWC)[4]; Nhóm Phụ nữ Cộng đồng ASEAN tại Hà Nội (AWCH)[5]
5. Phụ nữ Việt Nam hướng tới cộng đồng ASEAN 2015
5.1. Sự tham gia của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong ASEAN
Thực hiện chủ trương chung của Đảng và Nhà nước về tăng cường hội nhập quốc tế và khu vực, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (Hội) tích cực thúc đẩy hợp tác đa phương và song phương trong ASEAN ngay từ những ngày đầu gia nhập ASEAN.
Về song phương, hiện nay Hội có quan hệ với tổ chức phụ nữ quốc gia của tất cả các nước ASEAN và qua đó mở rộng quan hệ với nhiều đối tác khác vì mục tiêu thúc đẩy bình đẳng giới và tiến bộ phụ nữ, bảo vệ quyền của phụ nữ Việt Nam trong các giao dịch có yếu tố nước ngoài (như lao động di cư, kết hôn quốc tế...).
Về đa phương, Hội là thành viên của Liên đoàn các Tổ chức Phụ nữ ASEAN (ACWO) từ năm 1996.
Kể từ khi tham gia đến nay Hội tham dự đầy đủ các cuộc họp thường niên Ban Lãnh đạo và Đại hội đồng ACWO (tổ chức 2 năm một lần) cũng như các hội nghị, hội thảo do ACWO tổ chức. Theo cơ chế luân phiên của ACWO, Hội đã lần lượt giữ các chức vụ: Giám đốc, Thủ quỹ, Tổng thư ký, Phó chủ tịch và gần nhất là Chủ tịch ACWO nhiệm kỳ 2008-2010. Với vị trí này, Hội đã tổ chức thành công Đại hội đồng ACWO lần thứ 14 tại Hà Nội tháng 10/2010 với chủ đề “Tăng cường sự tham gia hiệu quả của phụ nữ vì một ASEAN hoà bình, thịnh vượng và phát triển bền vững”. Đề xuất của Hội về nội dung chủ đề các cuộc họp và các hoạt động trọng tâm thường được ACWO quan tâm đưa vào chương trình nghị sự, như các chủ đề: sự chuẩn bị của phụ nữ hướng tới cộng đồng ASEAN 2015; sự tham gia của ACWO trong xây dựng báo cáo thực hiện Mục tiêu thiên niên kỷ (MDG), Công ước CEDAW và Tuyên bố Bắc Kinh…
Tại các diễn đàn của ACWO, các đại biểu tập trung chia sẻ về hoạt động nâng cao năng lực phụ nữ, nhất là trong lĩnh vực kinh tế và phòng chống buôn bán phụ nữ. Phụ nữ ASEAN có ấn tượng tích cực về cách làm sáng tạo và thành tựu mà Hội thu được trong việc hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, như tiết kiệm và tài chính vi mô, dạy nghề, giới thiệu việc làm, hỗ trợ doanh nghiệp nữ…
Bên cạnh hợp tác trong ACWO, từ năm 2009 đến nay, Hội cũng tích cực tham gia các hoạt động thường niên của Hội nghị Xã hội Dân sự/Diễn đàn Nhân dân ASEAN (ACSC/APF);cơ chế tham vấn của Ủy ban Thúc đẩy và Bảo vệ Phụ nữ và Trẻ em ASEAN (ACWC) Việt Nam và khu vực. Mới đây, Hội cử Trung tâm Phụ nữ và Phát triển (đơn vị quản lý Ngôi nhà Bình yên hỗ trợ nạn nhân bị buôn bán trở về) tham gia Mạng lưới các Trung tâm dịch vụ xã hội ASEAN (NOSSA) với tư cách thành viên quốc gia của Việt Nam trong khuôn khổ dự án hợp tác giữa ACWC và Hoa Kỳ (US Progress). Đây sẽ là một kênh để Hội tăng cường hợp tác trong ASEAN về vấn đề phụ nữ và khả năng tác động chính sách về phụ nữ.
5.2. Một số thách thức đối với phụ nữ Việt Nam khi hội nhập ASEAN
Cộng đồng ASEAN được hình thành chắc chắn sẽ mang lại nhiều lợi ích cho người dân và đất nước, tuy nhiên cũng sẽ đặt ra nhiều thách thức, đặc biệt là đối với phụ nữ.
Về mặt khách quan, việc thiếu các số liệu thống kê phân tách giới về sự tham gia của nam giới và phụ nữ trong nền kinh tế ở cấp khu vực và mỗi quốc gia ảnh hưởng đến việc hoạch định chính sách hỗ trợ phụ nữ. Bất bình đẳng giới và phân biệt đối xử vẫn tồn tại trong xã hội ảnh hưởng đến sự phát triển và quyền bình đẳng của phụ nữ trên mọi lĩnh vực, trong đó có tiếp cận các nguồn lực.
Doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ trong khối ASEAN hầu hết là phi chính thức, do đó, phụ nữ ít có cơ hội được tiếp cận nguồn hỗ trợ của chính phủ và tiếp cận các dịch vụ tài chính. Doanh nghiệp nữ còn gặp trở ngại trong việc tiếp cận các mạng lưới chính thức; thiếu hệ thống hỗ trợ xã hội; khó khăn trong thủ tục xin cấp vốn, đặc biệt khi các thủ tục này trở thành quy định chung của cả khu vực. Việc hạn chế trong sử dụng công nghệ thông tin, kỹ thuật tiên tiến do phụ nữ ít được đào tạo chuyên về khoa học công nghệ như nam giới cũng ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nữ.
Cũng giống như các doanh nghiệp Việt Nam nói chung, thách thức chủ yếu đối với doanh nghiệp nữ là sức ép từ hàng hóa nhập khẩu, cạnh tranh về dịch vụ, đầu tư... của các nước ASEAN dẫn đến một số ngành/sản phẩm phải thu hẹp sản xuất, thậm chí rút khỏi thị trường. Ngoài ra, theo các nhà phân tích, hầu hết số việc làm tăng thêm đang tập trung trong ngành thương mại, xây dựng và vận tải, là những công việc thường ưu tiên cho nam giới. Như vậy, cơ hội việc làm cho phụ nữ sẽ ít hơn so với nam giới.
Về mặt chủ quan, những hạn chế của phụ nữ về trình độ, năng lực nói chung và hiểu biết về ASEAN nói riêng sẽ khiến phụ nữ gặp nhiều khó khăn:
Về nhân lực nữ, so với nhiều nước trong khu vực như Xinh-ga-po, Ma-lai-xi-a, Bru-nây, Phi-lip-pin, Thái Lan thì nhân lực nữ Việt Nam hiện nay còn gặp nhiều thách thức lớn như thể lực, trình độ, tay nghề, kỹ năng nghề nghiệp, ngoại ngữ, tin học... chưa đáp ứng được tiêu chuẩn quốc tế, tỷ lệ nhân lực nữ được đào tạo chuyên môn - kỹ thuật vẫn còn thấp và phần lớn là lao động phổ thông; nhân lực nữ thiếu kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn, kỹ năng sử dụng, vận hành những phương tiện kỹ thuật. Ngoài ra, nhân lực nữ cũng hạn chế trong khả năng thích ứng với những thay đổi trong công việc.
Hiện năng suất lao động Việt Nam chỉ bằng 1/18 năng suất lao động của Singapore, bằng 1/6 của Malaysia, bằng 1/3 của Thái Lan và Trung Quốc. Nếu căn cứ vào trình độ tay nghề thì năng suất lao động của phụ nữ Việt Nam còn thấp hơn so với tỷ lệ trên.
Riêng với doanh nghiệp nữ, cũng như doanh nghiệp Việt Nam nói chung, nhận thức về AEC còn hạn chế, ảnh hưởng đến việc nắm bắt các cơ hội và vượt qua thách thức khi tham gia tiến trình này.
Đồng thời phụ nữ cũng gặp nhiều rủi ro trong quá trình hội nhập như nguy cơ trở thành nạn nhân của bạo lực trên cơ sở giới như buôn bán người, bị lạm dụng tình dục,…
Do vậy các chính sách và chương trình hỗ trợ phụ nữ nâng cao năng lực hội nhập quốc tế nhất là trong lĩnh vực kinh tế đang được đặt ra như một yêu cầu bức thiết. Đồng thời, bản thân mỗi phụ nữ cũng cần tích cực, quyết tâm, chủ động chuẩn bị hành trang cần thiết cho hội nhập. Khi đó ASEAN 2015 sẽ là cơ hội tốt cho sự phát triển của phụ nữ Việt Nam.
5.3. Định hướng thời gian tới
Để hỗ trợ cho phụ nữ hội nhập tốt và đóng góp tích cực vào quá trình xây dựng cộng đồng ASEAN, Hội Phụ nữ các địa phương cần:
- Chủ động tích cực phối hợp với các cấp chính quyền địa phương tìm hiểu và thực hiện các hoạt động của địa phương hướng tới Cộng đồng ASEAN; tham mưu đề xuất các hoạt động liên quan đến phụ nữ.
- Tích cực tuyên truyền về Cộng đồng ASEAN để hội viên, phụ nữ hiểu rõ về Cộng đồng, lợi ích cũng như thách thức khi là công dân của cộng đồng này; giáo dục phụ nữ nâng cao ý thức tự học, tự trang bị kiến thức và tự bảo vệ mình trong bối cảnh hội nhập.
- Tận dụng các nguồn lực hiện có và tích cực vận động nguồn lực mới phục vụ nâng cao năng lực, trình độ, kỹ năng, tay nghề cho phụ nữ đáp ứng yêu cầu hội nhập.
- Xây dựng, kết nối các kênh tư vấn, hỗ trợ phụ nữ khi tham gia các giao dịch quốc tế (lao động di cư, kết hôn quốc tế …). Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này theo định hướng của TW Hội.
Ban Quốc tế, TW Hội LHPN Việt Nam – Tháng 9/2015
Tài liệu tham khảo:
1. Tài liệu lưu trữ của TW Hội LHPNVN
2. Trần Việt Thái, Xây dựng cộng đồng ASEAN, tài liệu hội nghị tập huấn công tác đối ngoại, Hội LHPNVN, tháng 11/2014.
3. Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh, “Người dân được lợi khi thành lập Cộng đồng ASEAN”, <http://www.vietnamplus.vn>
4. Phó Thủ tưởng, Bộ Trưởng ngoại giao Phạm Gia Khiêm, Vai trò của Việt Nam trong ASEAN, <http://www.mofahcm.gov.vn>
5. ASEAN vững bước tiến tới Cộng đồng.<http://www.nhandan.com.vn>
6. Hợp tác về phụ nữ, <http://asean.mofa.gov.vn>
7. Và một số bài viết khác trên các trang thông tin điện tử của Việt Nam và nước ngoài.
[1] Hiện nay, ASEAN đã ký kết hiệp định thương mại song phương với Trung Quốc (2004), Hàn Quốc (2006), Nhật Bản (2008), và Ấn Độ (2009).
[2] ACW + 3: Ủy Ban Phụ nữ ASEAN + Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc
[3] ACWO là tổ chức phụ nữ phi chính phủ lớn nhất trong khu vực được thành lập từ năm 1981 với mục tiêu thúc đẩy sự tham gia, đóng góp và thụ hưởng của phụ nữ trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia và khu vực; hỗ trợ việc thực hiện các chiến lược và chương trình đã được chính phủ các nước ASEAN thông qua nhằm tăng cường sự tham gia hiệu quả của phụ nữ trong khu vực. Hiện nay, ACWO quy tụ 10 tổ chức phụ nữ quốc gia của các nước thành viên ASEAN. ACWO có quan hệ hợp tác với Tiểu ban ASEAN về Phụ nữ nay là Ủy ban Phụ nữ ASEAN (ACW), Uỷ ban Phát triển xã hội của ASEAN; có vai trò tư vấn trong Hội đồng Kinh tế Xã hội của Liên Hợp Quốc (ECOSCO) (từ năm 1995) và được tham gia các cuộc họp quan trọng của LHQ liên quan đến phụ nữ như Uỷ ban Địa vị của Phụ nữ, Uỷ ban CEDAW (Công ước Xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ)… ACWO quan tâm tới nhiều vấn đề , từ phụ nữ trong công nghệ thông tin, phát triển kinh tế, tham chính, bảo vệ môi trường, phòng chống buôn bán người, phòng chống bạo lực gia đình, đến tham gia thực hiện các cam kết quốc tế về phụ nữ… ACWO đã khẳng định vai trò đại diện, đoàn kết và tập hợp phụ nữ ASEAN trong việc thực hiện mục tiêu của ASEAN dưới góc độ giới.
[4] Nhóm Phụ nữ ASEAN được thành lập ngày 8/8/1975 là một tổ chức xã hội gồm các phu nhân và cán bộ ngoại giao nữ của 10 nước thành viên ASEAN tại Gia-các- ta, với mục đích tăng cường tình hữu nghị, đoàn kết khu vực và thúc đẩy hợp tác giữa các nước thành viên thông qua các chương trình, hoạt động xã hội, văn hóa phong phú, đa dạng...
[5] Ngày 11/8/2015, Nhóm Phụ nữ Cộng đồng ASEAN tại Hà Nội đã được thành lập. Thành viên của nhóm là phu nhân và cán bộ nữ của Bộ Ngoại giao Việt Nam, các Cơ quan đại diện các nước ASEAN tại Hà Nội do Đại sứ Nguyễn Nguyệt Nga, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Hội Phụ nữ Việt Nam, Phu nhân Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh làm Chủ tịch danh dự
Các tin khác
- HƯỚNG TỚI 70 NĂM THÀNH LẬP LIÊN ĐOÀN PHỤ NỮ DÂN CHỦ QUỐC TẾ (21/09/2015)
- 65 NĂM QUAN HỆ VIỆT NAM – LIÊN BANG NGA (21/09/2015)
- 65 NĂM QUAN HỆ VIỆT NAM - TRUNG QUỐC (18/09/2015)
- 20 NĂM QUAN HỆ VIỆT NAM – MỸ VÀ HỢP TÁC TRONG VẤN ĐỀ PHỤ NỮ (18/09/2015)
- Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 70 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh nước CHXHCN Việt Nam (11/12/2015)
- (11/12/2015)
- Tài liệu sinh hoạt hội viên Quý II/2015 (11/12/2015)
- Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 125 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/2015) (11/12/2015)
- Đề cương tuyên truyền 40 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (22/04/2015)
- Tài liệu sinh hoạt hội viên Quý 1/2015 (11/12/2015)
VĂN BẢN MỚI
WEBSITE SỞ NGÀNH
Bình chọn
Theo bạn thông tin nội dung website thế nào ?
123 người đã tham gia bình chọn










